Trong thuật số cổ xưa có lưu truyền 1 bài thơ có tên là “Thập Can Chiết Tự”, đa phần mỗi người thấy nó xuất hiện trên cuốn sách “Ngọc hạp chính tông” nên trích dẫn ra, nhưng có lẽ nó không phải bắt nguồn từ đấy, mà phải có một ngồn nguồn xa xôi ở đâu đó trong giang hồ thuật sĩ của Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc gì đó.
THẬP CAN CHIẾT TỰ, tức là đem biến hóa 10 chữ Thiên Can theo thuật “chiết tự” của chữ Hán để đoán ý nghĩa của nó. (Chứ không phải là dùng Âm Dương-Ngũ hành với Năng Lượng gì gì đó đâu…)
THẬP CAN CHIẾT TỰ
Giáp (甲) biến vi điền (田)
Ất (乙) biến vi vong (亡)
Bính(丙) biến vi tù (囚)
inh () biến vi vu (于)
Mậu (戊) biến vi quả (寡)
Kỷ (己) biến vi ân (殷)
Canh (庚) biến vi cô (孤)
Tân (辛) biến vi toan (酸)
Nhâm(壬) biến vi vương (王)
Quý (癸) biến vi thiên (天)
Chú : Phép “chiết tự” “Biến tự”, tức là thay đổi số nét của chữ đi để thành 1 chữ khác gần giống tự dạng (như chữ Giáp, chữ Đinh), hoặc them bớt bộ thủ trong chữ cho thành chữ khác (như chữ Quý, chữ Thiên), hoặc lấy âm (âm đọc tiếng trung) gần giống để thay thế v.v….
Thập Thiên Can chiết tự thi (bài thơ về chiết tự 10 chữ Thiên Can) – Chép theo Ngọc Hạp Chính tông
1. Chữ Giáp
Nhân sinh Giáp tự biến vi điền
Phú quý vinh hoa thực lộc thiên
Phụ mẫu huynh đệ tha biệt sở
Phu thê nhị đại hậu song toàn
(Dịch Nôm – Ngc hạp chính tông)
Chữ Giáp có số đất điền
Bằng không cũng hưởng lộc tài tự nhiên
Anh em nào có cậy trông
Tha hương lập nghiệp mà nên cửa nhà
Vợ chồng thay đổi nhiu lần
Trai thay đổi vợ, gái thay đổi chồng
Cho hay duyên số ở trời
Khá làm âm đức, phước đành hậu lai
Số này tuổi nhỏ tay không
Lớn lên có của, vợ chồng làm ra
2. Chữ Ất
Nhân sinh Ất tự biến vi Vong
Gia thất, tin tài tất thị không
Lục súc Tỵ phin du vong bại
Phu thê biến cải định nan phùng
(Dịch Nôm – Ngc hạp chính tông)
Ngưi sinh chữ Ất gian nan
Lắm khi dào dạt, lắm lần tay không
Nuôi vật, vật cũng tang thương
Ở cùng bầu bạn chẳng phần đặng yên
Vợ chồng thay đổi lương duyên
Trai thay đổi vợ, gái thay đổi chồng
Số này sớm cách quê hương
Ra ngoài lập nghiệp mới nên cửa nhà
Cho hay số ở Thiên Tào
Ngưi hin lận đận, tuổi già nh con
3. Chữ Bính
Nhân sinh Bính tự biến vi Tù
Lão thiểu vô an hạn bất chu
Sở hữu ngoại nhân y hữu định
Thân cư quan quý quá niên trưng
(Dịch Nôm – Ngọc hạp chính tông)
Chữ Bính số cũng quạnh hiu
Ngưi sinh chữ ấy trn đi âu lo
Tuổi nh bịnh hoạn ốm đau
Lớn tuổi cô quạnh một mình thảm thương
Số này lập nghiệp tha phương
Có chí tu niệm kính tin Phật Tri
Nếu mà giữ dạ hin lương
Tuổi già sẽ được lộc tài tự nhiên
Những ngưi có chí thiện nhân
Có khi lao khổ có ngày thảnh thơi.
4. Chữ Đinh
Nhân sinh inh tự biến vi Vu
Gia thất tin tài bất định tu
Trung vận trùng lai vinh phú đắc
Thiếu niên lao khổ uổng công phu
(Dịch Nôm – Ngọc hạp chính tông)
Chữ Đinh biến vi chữ Du
Số nh bệnh tật ốm đau thưng thưng
Lắm lần tai nạn thảm thương
Nh có hồng phước Phật Tri chở che
Lớn lên thông tuệ khác thưng
Có quyền có chức có tài tự nhiên
Có chí sáng tác mi ngành
Có tài có đức cầm quyn điểm binh
Xét xem qua số nợ duyên
Trai đôi ba vợ, gái thì truân chuyên
Nết na đức hạnh dung hoà
Nhưng mà cũng chịu vui chiu buồn mai
Cho hay căn số tự Tri
Duyên đầu lỡ dở hiệp hoà duyên sau
Có căn tích thiện tu nhân
Tuổi già chung hưởng lộc tài ấm no
5. Chữ Mậu
Nhân sinh Mậu tự biến vi Quả
Phiêu phất tha phương định thất gia
Cô độc nhất thân vô phương định
Hành thân phản mại lạc ngâm nga
(Dịch Nôm – Ngọc hạp chính tông)
Chữ Mậu cô quạnh tha phương
Lìa nhà xa xứ, lắm lần gian nan
Anh em ruột thịt chẳng hoà
Tha phương bầu bạn chỉ nh ngưi dưng
Gái thì lận đận lương duyên
Khi thì vui vẻ khi tan nát lòng
ôi lần mới đặng thành công
Tuổi trẻ lao khổ, tuổi già nh con
Tánh hay tích thiện từ hoà
Tin Tri, tưởng Phật lòng hàng ái tha
Những ai có chí tu nhơn
Tuy rằng hoạn nạn, phước còn hậu lai
6. Chữ Kỷ
Nhân sinh Kỷ tự biến vi Ân
Gia thất tin mệnh phú vinh
Gia sự đa tài, sinh hiếu tử
Hữu thi tấn tới tự phi vân
(Dịch Nôm – Ngọc hạp chính tông)
Chữ Kỷ biến vi chữ Ân
Tánh thì mau mắn làm ơn cho ngưi
Tấm lòng trung trực vẹn b
Làm ơn nên oán, nhiu lần tân toan
Của, con có sẵn tuổi già
Tuổi trẻ lao khổ tha phương lập thành
Nhiu khi tán tụ như sương
Khi ăn chẳng hết,khi thì tay không
Nợ duyên tan vỡ buồn lòng
ôi lần ly hiệp mới nên gia đình
Khá nên tích thiện tu thân
Tuổi già sẽ thấy môn đình sum vinh
7. Chữ Canh
Nhân sinh Canh tự biến vi Cô
Số ấn công hầu lưu khách địa
Gia thất lập thân thừa tổ đức
Phước tài tái tận mãn vinh hoa
(Dịch Nôm – Ngọc hạp chính tông)
Nhân sinh Canh tự biến vi Cô
Số ấn công hầu nên danh phận
Bằng không thì cũng lắm ngh khéo thay
Vợ chồng cách trở sơn xuyên
ôi lần ly hiệp mới nên cửa nhà
Gái thì hiu quạnh muộn màng
Bằng không thì cũng đôi lần mới nên
Số này tu niệm thì hay
Hậu lai sẽ hưởng phước dày lộc cao
Có đâu thiên vị ngưi nào
Số cao thì hưởng lộc tài tự nhiên
8. Chữ Tân
Nhân sinh Tân tự biến vi Tan
Tánh khí hin lương lập nghiệp nan
Phu phụ nhất tâm lưỡng nhân thú
Bằng hữu cự tộc tối vinh quang
(Dịch Nôm – Ngọc hạp chính tông)
Chữ Tân biến vi chữ Toan
Gia đình di đổi đắng cay muôn vàn
Một thân tự lập mà nên
Tha phương lắm độ phong sương hải tần
Lương duyên thay đổi đôi lần
Tuổi già phú túc miên miên cửu trưng
Những ngưi có chí thiện nhân
Tri dành hậu quả hưởng nh phước dư
9. Chữ Nhâm
Nhân sinh Nhâm tự biến vi Vương
Thân th mạng trưng thiên số chung
Tỵ him hung đồ tha biệt sở
Thân cư quan quý hậu an khương
(Dịch Nôm – Ngọc hạp chính tông)
Chữ Nhâm biến vi chữ Vương
Thân thì th số, mạng thì vinh quang
Có lần cách trở gia hương
Xứ xa lập nghiệp, vinh quang ai bì
Số này nghiệp tổ không nh
Thân lưu đất khách lập nên cơ đồ
Trai thì vợ đôi,vợ ba
Gái thì số cũng đôi lần mới nên
Khá nên tích đức thiện nhơn
Hậu lai sẽ hưởng phước Tri ấm no
10. Chữ Quý
Nhân sinh Quý tự biến vi Thiên
Tin hậu phu thê y lộc nhiên
Chức phận văn chương đa phú quý
Trí tuệ vinh hoa hưởng th trưng
(Dịch Nôm – Ngọc hạp chính tông)
Chữ Quý biến vi chữ Thiên
Trai thi chức phận, gái thi chính chuyên
Số này cũng có đất đin
Gia môn phú túc th trưng bn lâu
Vợ chồng hoà thuận đủ điu
Khi ra phong nhã, khi vào hào hoa
Nếu mà tích thiện, tu thêm
Ngày sau con cháu miên miên cửu trưng
Theo bài thơ này, có khá nhiu câu “ăn theo, thưng là do các thầy giang hồ thuật sĩ dân gian thêm thắt, diễn nôm cho dễ nhớ dễ thuộc, kiểu như “Canh cô – Mậu quả, “Trai inh Nhâm Quý thì tài – gái inh Nhâm Quý thì hai lần đò.
Xét 1 cách chi tiết :
Tuổi Giáp : Nam thì tuổi trẻ tha hương lập nghiệp, Nữ thì lận đận tình duyên, gia đạo di đổi đôi lần.
Tuổi inh : Nam thì thiếu thi vất vả, có chí lập nghiệp, trung vận ắt sẽ thành phú quý. Nữ thì gia đạo không yên, di đổi đôi lần.
Tuổi Nhâm : Nam thì thiếu thi ly biệt tha hương, là ngưi có tài chí, hậu vận sẽ thịnh đạt. Nữ thì gia đạo không yên, di đổi đôi lần.
Tuổi Quý : Nam thì Phú Quý vinh hoa, Nữ thì chính chuyên, phu thê hòa mục (!)
Nếu xét như trên, để cho câu ấy đúng cho cả hai trưng hợp (Nam có tài, Nữ hai lần đò), thì phải là : “Trai Đinh Nhâm Giáp thì tài, Gái inh Nhâm Giáp thì hai lần đò”.
Lý thuyết thì là như thế, nhưng thực tế câu ấy có đúng không thì chưa thể kết luận, bởi vì nếu xét theo Can Chi bát tự thì mới chỉ có Niên Can thôi chưa đủ. Tuy nhiên, nguyên tắc của Thuật số Tri Mệnh là “không có câu nào hoàn toàn đúng cho mi trưng hợp, mà đơn giản chỉ nên hiểu rằng đó là 1 khía cạnh cần xem xét. Nhiệm vụ của “ông thầy là phải tập hợp, tổng kết và … chốt hạ. Xôi gà ở đấy mà ra cả.
Thực ra, trong các bài thơ trên thì cái ý nghĩa “Trai quân tử năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ lấy một chồng” thể hiện khá rõ. Bởi lẽ, chuyện di đổi gia đình đâu chỉ có xảy ra với Nữ nhân, mà Nam nhân cũng chịu đó thôi, tại sao lại chỉ xét Nữ mà không xét Nam? Có phải chăng “Nữ nhân Phu Tử tối vi tiên??
Vài lời bản nhảm, xin nhưng các cao nhân tiếp tục.