21 C
Hanoi
Thứ Bảy, 1 Tháng Tư, 2023
spot_img
Trang chủ Blog Trang 2

THẾ NÀO LÀ TAM BAN XẢO QUÁI ?

0

THẾ NÀO LÀ TAM BAN XẢO QUÁI ?

        Trong những cách cục có thể giúp cho trạch vận của căn nhà được lâu dài, bền bỉ thì ngoài cách “Hợp Thập” còn có những cách cục “Tam ban xảo quái”.

Nói “Tam ban quái” là vì trong toàn trạch bàn, các vận-sơn-hướng tinh tại mỗi cung hoặc là nối liền nhau thành một chuỗi như 1-2-3, 2-3-4, 3-4-5, 4-5-6, 5-6-7, 6-7-8, 7-8-9, 8-9-1, 9-1-2, hoặc là tạo thành những chuỗi số cách đều nhau 3 số như 1-4-7, 2-5-8, 3-6-9. Cách có những chuỗi số nối liền nhau được gọi là “Tam ban quái”, còn cách có những chuỗi số cách đều nhau 3 số được gọi là “Phụ mẫu Tam ban quái”.
Trong “Phụ mẫu Tam ban quái” còn được chia ra làm 2 loại là “Thất tinh đả kiếp” và “Tam ban Xảo quái”. Riêng trong mục này chỉ xin bàn qua “Tam ban Xảo quái” mà thôi.

Gọi là “Tam ban Xảo quái” là vì đây là trường hợp “Tam ban quái” kỳ diệu và hiếm có nhất. Do đó cũng là cách cục quý giá và tốt đẹp nhất trong mọi cách cục của Huyền không Phi tinh. Nó chỉ xuất hiện khi các vận-sơn-hướng tinh tại mỗi cung kết hợp thành 1 trong 3 cặp số: 1- 4 – 7, 2 – 5 – 8, 3 – 6 – 9. Điều kiện tiên quyết là tất cả các cung phải có 1 trong 3 cặp số này, tức là toàn bàn đắc Tam ban quái thì mới được coi là đắc “Tam ban Xảo quái”.
Thí dụ: nhà tọa THÂN hướng DẦN (tức hướng 60 độ), nhập trạch trong vận 8.

 Nếu lập trạch vận thì ta thấy tất cả các cung đều có 1 trong 3 cặp số 1-4-7, 2-5-8 hay 3-6-9, cho nên căn nhà này toàn bàn là cuộc Tam ban quái, và được coi là đắc “Tam ban Xảo quái”.
Vì cách cục như trên là rất hiếm, nên trong tổng số 1944 cách cục của Phi tinh thì chỉ có 16 cách là hội đủ điều kiện của “Tam ban Xảo quái” như sau:
– Nhà tọa CẤN hướng KHÔN: trong các vận 2, 5 và 8.
– Nhà tọa KHÔN hướng CẤN: trong các vận 2, 5 và 8.
– Nhà tọa DẦN hướng THÂN: trong các vận 2, 5 và 8.
– Nhà tọa THÂN hướng DẦN: trong các vận 2, 5 và 8.
– Nhà tọa SỬU hướng MÙI: trong các vận 4 và 6.
– Nhà tọa MÙI hướng SỬU: trong các vận 4 và 6.
Đối với Huyền không Phi tinh, những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” được coi là kỳ diệu, vì chẳng những là mỗi con số được cách nhau 3 số, “giống như 1 chuỗi ngọc đính liền nhau, (thuận hay nghịch đều cách 3), hoàn toàn tự nhiên, không chút gượng ép” như Trạch vận Tân án đã nói, mà còn vì trong 3 cặp số đó, mỗi cặp đều có 1 số tiêu biểu cho Thượng Nguyên – Trung Nguyên – Hạ Nguyên.

 

Như 1-4-7 thì 1 là số của Thượng nguyên, 4 là số của Trung nguyên, 7 là số của Hạ nguyên. Với cặp 2-5-8 thì 2 là số của Thượng nguyên, 5 là số của trung nguyên, 8 là số của Hạ nguyên. Với cặp 3-6-9 thì 3 là số của Thượng nguyên, 6 là số của Trung nguyên, 9 là số của Hạ nguyên. Các số 1-4-7 lại đều là những số khởi đầu của Tam nguyên, 2-5-8 đều là những số giữa, 3-6-9 đều là những số cuối, nên vừa có thể làm cho tương thông (hay thông khí) hết cả 3 Nguyên, lại vừa không bị rối loạn hoặc pha tạp. Những cặp số có thể làm thông khí cả Tam Nguyên, há không phải là lâu dài hay sao? Lại không bị rối loạn hoặc pha tạp, há không phải là quý khí hay sao? Cho nên những nhà đắc được cuộc “Tam ban Xảo quái” chẳng những vận khí sẽ rất lâu dài trong suốt Tam Nguyên Cửu Vận, mà vì còn đắc quý khí, nên nếu biết cách xử dụng thì dòng họ đời đời sẽ phú quý, danh gia vọng tộc. Nếu không biết cách xử dụng thì cũng chỉ bình thường, thậm chí có thể mang lấy nhiều tai họa, tùy theo từng trường hợp.

NHỮNG TRƯỜNG HỢP TAM BAN QUÁI PHÁT SINH TAI HỌA
Tuy một số nhà đắc cách “Tam ban Xảo quái” chẵng những đã không gặp được điều gì tốt lành, lại bị nhiều tai họa liên tiếp xảy ra, hại người tốn của… là do những nguyên nhân sau đây:
1) Nhà thường chỉ có cửa trước, chứ không có cửa sau. Lý do là vì những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” hầu như bao giờ cũng gặp trường hợp “Thướng Sơn, Há Thủy”, vượng tinh của Hướng sẽ tới phía sau nhà, còn vượng tinh của Sơn sẽ tới phía trước.

Nếu phía sau nhà không có cửa hoặc hồ tắm… thì vượng tinh của Hướng đã bị “Thướng Sơn”, nên tài lộc sẽ gặp nhiều khó khăn, bế tắc.  Nếu như phía trước nhà đã có cửa mà còn trống, thoáng, thì vượng tinh của Sơn đã bị “Há thủy”, chủ về việc phá bại nhân đinh ( Con cái hư hỏng – tật bệnh ).

Đó là chưa kể trong 16 cách cuộc đắc “Tam ban Xảo quái” thì đa số lại còn bị Phản-Phục Ngâm, nên làm sao tránh được tai họa? Cho nên tối thiểu là nhà phải có cổng, cửa, hay thủy tại khu vực có vượng khí của Hướng tinh, dùng cách “Nhất chính đương quyền” để hóa giải những cuộc “Thướng Sơn, Há Thủy” và Phản-Phục ngâm, thì mới có thể tránh được tai họa. Nên nhớ là cách “Thướng Sơn, Há Thủy” của Phi tinh là chỉ về hình thức, tức là Hướng tinh chiếu tới phía sau nhà, nên trên danh nghĩa thì nó đã bị “lên núi” tức “Thướng Sơn”. Nhưng nếu phía sau nhà có thủy hoặc cửa ra vào thì nó đã “gặp nước”, nên biến thành cách “Đáo Hướng”, chứ không còn là cách “Thướng Sơn” nữa. Tương tự với Sơn tinh tới hướng trên danh nghĩa là “Há Thủy”, nhưng nếu phía trước có núi hay nhà cao, thì Sơn tinh đã “gặp núi”, nên lại biến thành cuộc “Đáo Sơn”. Còn về Phản-Phục ngâm thì chúng chỉ gây tai họa trong trường hợp là khí suy, tử mà thôi. Nên nếu phương có vượng khí mà có cửa hoặc sông hồ… thì cái họa do Phản-Phục ngâm cũng không còn nữa.
2) Phía sau nhà đã không có cửa, lại còn có núi cao hay nhà cao. Phía trước nhà đã có cửa, lại còn thêm trống, thoáng thì tai họa càng nặng.
3) Nếu đã phạm các điều ở trên, mà hướng nhà lại kiêm nhiều, vị trí cửa, bếp, bàn thờ… còn phạm Không vong thì tai họa càng nghiêm trọng.
4) Phía sau nhà đã không có cửa hay thủy, còn cửa trước tuy không nằm ngay đầu hướng, nhưng lại nằm trong 1 khu vực làm tiết thoát nguyên khí của hướng tinh nơi đầu hướng (tức Hướng tinh ở hướng phải sinh cho Hướng tinh nơi cửa) thì cũng gặp nhiều tai họa.
5) Những nhà tuy phía sau có cửa, nhưng lại bị nhà hàng xóm che cao hoặc áp sát, phía trước tuy không có cửa, nhưng có sân trống hay thủy… thì cũng vẫn là cách cục phá bại và gặp nhiều tai họa.

Gần đây, có một số nhà Phong thủy lại cho rằng những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” cần phải vuông vức, để tất cả các cung của Bát quái đều nằm gọn trong căn nhà và chiếm 1 phần bằng nhau, chứ không thể có cung nào bị lọt ra ngoài nhà hay chiếm 1 phần quá ít so với những cung khác!!!

Họ cho rằng chỉ có những nhà như thế mới phát phúc, lộc, còn những nhà không vuông vức thì sẽ gặp nhiều tai họa. Tuy nhiên, nếu gặn hỏi lý do thì họ thường chỉ trả lời được rằng nếu các cung không đồng đều, hay có 1, 2 cung lọt ra ngoài cửu cung thì Tam ban quái sẽ không đầy đủ, nên khí sẽ “không thông” mà gây ra tai họa. Nhưng thật ra nếu xét kỹ “tiêu chuẩn” này thì có thể nhận thấy là ngay chính họ cũng không biết lý do tại sao những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” mà cũng vẫn bị họa, nên mới đưa ra “tiêu chuẩn” nhà cần vuông vức.Và vì không tìm được lý do giải thích, cho nên họ thường xoay sang “kết hợp” đủ mọi lý thuyết khác để tìm câu giải đáp như sau:
– Về hình cục loan đầu: Thì những gì vuông vức đều được coi là tốt đẹp, làm cho khí lưu thông điều hòa, còn những gì méo mó, lệch lạc đều bị coi là xấu, là làm cho khí bị bế tắc hoặc trì trệ, thiên lệch… mà làm hỏng cuộc “Tam ban Xảo quái”.
– Về vận khí: Hầu hết các cuộc đắc “Tam ban Xảo quái” đều xuất hiện trong các vận 2, 5, 8 tức là Thỗ vận, nên nhà vuông vức thì tướng nhà sẽ hợp với nguyên vận (hình vuông thuộc Thổ) mà làm cho tốt đẹp.
– Về phương vị: Vì chỉ có những nhà nằm trong tọa hướng CẤN-KHÔN, KHÔN-CẤN (tức trục ĐÔNG BẮC –TRUNG CUNG – TÂY NAM) là đắc “Tam ban Xảo quái”, mà Ngũ hành của trục này đều thuộc Thổ, cho nên hình dáng của căn nhà mới “cần” vuông vức để hợp với Ngũ hành của tọa – hướng và trung cung mà giúp cho thông khí, hoặc tăng thêm cái tốt, chế hóa được cái xấu…
Tuy nhiên trên thực tế có rất nhiều nhà đắc “Tam ban Xảo quái”, lại vuông vức nhưng vẫn gặp tai họa như một số trường hợp dưới đây:
– Trường hợp 1: Nhà tọa SỬU hướng MÙI (210 độ), nhập trạch trong vận 6 (1965). Nhà hình chữ nhật, chiều dài của mặt tiền là 9m, chiều sâu 4m 5, có cửa trước tại khu vực phía TÂY NAM, cửa hông tại khu vực phía TÂY. Phía sau không có cửa, chỉ có nhà hàng xóm áp sát ngay sau tường.
 Nếu lập tinh bàn thì thấy có vượng khí Lục bạch của Hướng tinh tới phía sau, cửa trước có hướng tinh Cửu Tử, cửa hông có Hướng tinh Ngũ Hoàng. Sau khi vào ở được 2 năm thì Ông nội mất, sau đó 8 năm thì người cha mất (lúc đó mới có 49 tuổi).

Về kinh tế thì gia cảnh ngày một túng thiếu, trong nhà luôn có người bệnh hoạn.
– Trường hơp 2: (trong Trạch vận Tân án, trang 412): Nhà tọa MÙI hướng SỬU kiêm KHÔN-CẤN 3 độ (tức hướng 33 độ), nhập trạch năm CANH NGỌ (1930, tức thuộc vận 4). Trong sách không nói kích thước bao nhiêu, nhưng theo hình vẽ thì nhà hình vuông. ( Phía sau)  Sơn  không có cửa, ở hướng ( Phía Trước ) cũng không có cửa, chỉ có 1 cửa duy nhất nằm tại phương KHẢM để ra, vào mà thôi.
   Nếu lập tinh bàn thì thấy vượng khí của Hướng tinh tới phía sau, phía trước có hướng tinh Nhất bạch, nơi cửa ra vào có Hướng tinh Tam bích. Nhà này sau khi vào ở làm ăn thất bại, hao tài tốn của, xung đột với khách hàng, lại còn bị thầy Phong thủy tiên đoán “sẽ có giặc cướp đến quấy nhiễu, hoặc bị kẻ xấu vu khống khiến phải hao tổn nhiều tiền của”, nên khuyên 1 là làm cửa và đường đi thông phía sau, 2 là “tìm ngay 1 căn nhà khác để thuê và chuyển đến sẽ tránh được tổn thất”.
– Trường hợp 3: (cũng trong Trạch vận Tân án, trang 202): Nhà của một đại phú gia, xây dựng vào vận 2, tọa CẤN hướng KHÔN (tức hướng TÂY NAM – 225 độ). Đây là 1 dinh thự “có quy mô hùng tráng, trông như lâu đài vua chúa”. Nhà có cổng, cửa ra vào tại khu vực phía NAM, phía sau (tức khu vực ĐÔNG BẮC) có biển mênh mông.
 Nếu lập tinh bàn thì sẽ thấy phía ĐÔNG BẮC đắc vượng khí Nhị Hắc, phía NAM đắc sinh khí Tam bích, nên tuy trong sách không vẽ hình dáng ra sao, nhưng trong vận 2, vượng khí chiếu đến phía ĐÔNG BẮC, mà nơi này có đại thủy mênh mông, nên “phát đạt vô hạn, tiến triển mạnh mẽ, có thể nói là nhà phát phúc duy nhất trên quần đảo”. Qua vận 3, hướng tinh Nhị Hắc tuy đã biến thành thoái khí, nhưng cửa khẩu nơi phía NAM lại đón được vượng khí, nên “vẫn tiếp tục phát triển thịnh vượng như vận trước”.

Cuối vận 3, vượng khí đã hết, công việc làm ăn gặp thất bại nặng, sự nghiệp trong phút chốc ra tro, chủ nhân đau buồn mà chết. Nhìn vào trạch vận này, Thẩm điệt Dân tiên sinh ( tức con trai của Thẩm trúc Nhưng) đã từng nhận định:”Toàn bộ cục diện này hợp thành Tam ban quái, nên vận 2 đại vượng, vận 3 vẫn có lợi. Nhưng khi sắp sang vận 4 thì sẽ thất bại nặng, chỉ e còn có tai họa khác đáng sợ hơn”.
Qua 3 trường hợp trên, ta thấy ngay cả đối với những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” thì họa, phúc vẫn là do cổng, cửa hay những phương vị có sơn – thủy… quyết định, chứ không phải là do nơi hình dạng của căn nhà có vuông vức hay không. Ngay cả trong trường hợp 3, tuy không biết hình dạng căn nhà như thế nào, nhưng nếu nó thiên lệch thì tại sao trong vận 2 và 3 vẫn vượng phát, cực thịnh một thời?  Còn nếu nó vuông vức thì tại sao khi sắp qua vận 4 cơ nghiệp lại hóa thành tro, bụi?  Cho nên nguyên do tạo ra họa, phúc cũng vẫn là cổng, cửa và những phương vị có Sơn, Thủy… mà thôi. Ngoài ra, có một vài trường hợp nhà đắc “Tam ban Xảo quái” cũng đòi hỏi nhà cần vuông vức, nhưng là để thỏa mãn những yếu tố khác, chứ hoàn toàn không liên quan gì tới cách cục này cả.

Sau cùng, tuy trong lý thuyết thường nói những nhà hay mộ đắc cách này đều sẽ được “thông khí” và phát suốt Tam Nguyên Cửu Vận, nhưng thật ra muốn đạt được sự “thông khí” thì cần phải thỏa mãn một số điều kiện cần thiết, thì phúc lộc mới được trường cửu, lâu dài vậy.

Mười Sửu – Đức Trọng

LƯỜNG THIÊN XÍCH

0

LƯỜNG THIÊN XÍCH

      Huyền Không phân bố 9 con số của Lạc Thư theo một quỷ đạo cố định, có tên là Lường Thiên Xích. Gọi là Lượng Thiên Xích vì nó được coi là một cây thước[Xích] để đo lường [Lượng] vận trời [Thiên].  Lường Thiên Xích còn được gọi là Cửu Tinh Đãng Quái, hay là thứ tự di chuyển của Cửu Tinh trong Lạc Thư.

Nói về vòng Lường Thiên Xích, sách Trạch Vận Tân Án có viết “Thùy đắc Lượng Thiên Xích nhất chi; Bộ lường trung, ngoại cổ kim thi; Tử sinh đắc thất tùy thám sách; Quá hiện vị lai liễu liễu tri.” Tạm dịch là: Nếu đã nắm được vòng Lượng thiên Xích; Có thể đo lường mọi chuyện trong, ngoài xưa nay; Tìm hiểu được sự sống chết và được mất; Biết rõ quá khứ, hiện tại và tương lai.

Lường Thiên Xích là sự di chuyển của 9 ngôi sao theo thứ tự nhất định.

(1) Từ trung cung xuống TÂY BẮC.
(2) Từ TÂY BẮC lên TÂY.
(3) Từ TÂY xuống ĐÔNG BẮC.
(4) Từ ĐÔNG BẮC lên NAM.
(5) Từ NAM xuống BẮC.
(6) Từ BẮC lên TÂY NAM.
(7) Từ TÂY NAM sang ĐÔNG.
(8) Từ ĐÔNG lên ĐÔNG NAM.
(9) Từ ĐÔNG NAM trở về trung cung.

Đó chính là bộ pháp (cách di chuyển) của Cửu tinh. Phải biết được nó, mới có thể biết cách bài bố tinh bàn cho 1 trạch vận mà luận đoán cát, hung được.

Tuy Cửu tinh di chuyển theo 1 quỹ đạo nhất định là từ trung cung xuống TÂY BẮC, rồi từ đó lên TÂY. . ., nhưng khi di chuyển thì chúng sẽ tạo ra 2 tình huống: Thuận và Nghịch

1) Di chuyển THUẬN: Theo thứ tự từ số nhỏ lên số lớn, chẳng hạn như từ 5 ở trung cung xuống 6 ở TÂY BẮC, rồi lên 7 ở phía TÂY, xuống 8 phía ĐÔNG BẮC…;

2) Di chuyển NGHỊCH: Theo thứ tự từ số lớn xuống số nhỏ, chẳng hạn như từ 5 ở trung cung xuống 4 ở TÂY BẮC, lên 3 ở phía TÂY, xuống 2 ở phía ĐÔNG BẮC…

Sự di chuyển thuận, nghịch của Cửu tinh là hoàn toàn dựa vào nguyên tắc phân định âm-dương của Tam nguyên long.

***      TAM NGUYÊN LONG 
Sau khi đã biết được 24 sơn (hay hướng) thì còn phải biết chúng thuộc về Nguyên nào, và là dương hay âm, để có thể xoay chuyển phi tinh Thuận hay Nghịch khi lập trạch vận. Nguyên này không phải là “Nguyên”chỉ thời gian như đã nói trong“Tam Nguyên Cửu Vận”, mà là chỉ địa khí của long mạch, hay phương hướng của trái đất mà thôi “ nên gọi là Tam nguyên Long”.
Tam nguyên long bao gồm: Địa nguyên long, Thiên nguyên long, và Nhân nguyên long. Mỗi Nguyên bao gồm 8 sơn (hay 8 hướng), trong đó có 4 sơn Dương và 4 sơn Âm như sau:

– THIÊN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn :
* 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN.
* 4 sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU.
– ĐỊA NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:
* 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH.
* 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI.
– NHÂN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:
* 4 sơn dương: DẦN, THÂN, TỴ, HỢI.
* 4 sơn âm: ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ.
Với sự phân định âm hay dương của mỗi hướng như trên, người ta có thể biết được lúc nào phi tinh sẽ đi thuận hoặc đi nghịch, khi xoay chuyển chúng theo vòng LƯỜNG THIÊN XÍCH.(điều này sẽ được nói rõ trong phần lập tinh bàn cho trạch vận).
Ngoài ra, nếu nhìn kỹ vào sự phân chia của Tam nguyên Long , ta sẽ thấy trong mổi hướng của Bát quái được chia thành 3 sơn, và bao gồm đủ ba Nguyên: Địa,Thiên, Nhân nguyên long, theo chiều kim đồng hồ.

Thí dụ  Như hướng BẮC được chia thành 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ, với NHÂM thuộc Địa nguyên long, TÝ thuộc Thiên nguyên long, và QUÝ thuộc Nhân nguyên long. Các hướng còn lại cũng đều như thế, nghĩa là Thiên nguyên long ở chính giữa, Địa nguyên long nằm bên phía tay trái, còn Nhân nguyên long thì nằm bên phía tay phải. Từ đó người ta mới phân biệt ra Thiên nguyên long là quẻ Phụ mẫu, Địa nguyên long là Nghịch tử (vì nằm bên tay trái của Thiên nguyên long tức là nghịch chiều xoay chuyển của vạn vật), còn Nhân nguyên long là Thuận tử.

Trong 3 nguyên Địa –Thiên – Nhân thì Thiên và Nhân là có thể kiêm được với nhau (vì là giữa phụ mẫu và thuận tử). Còn Địa nguyên long là nghịch tử chỉ có thể đứng 1 mình, không thể kiêm phụ mẫu hay thuận tử. Nếu Địa kiêm Thiên tức là âm dương lẫn lộn (hay âm dương sai thố). Nếu Địa kiêm Nhân thì sẽ bị xuất quái.

Mười Sửu – Đức Trọng

THÀNH MÔN QUYẾT

0

THÀNH MÔN QUYẾT

Đàm Dưỡng Ngô giải thích trong Huyền Không bổn nghĩa câu của thanh nang áo ngữ”bát quốc thành môn tỏa chánh khí”.

Bát quốc là ý nói cái tượng thể kín đáo, thành môn là nói cái chỗ thông khí, có kín đáo mà không có chỗ khuyết thông, thì âm dương bất phân, động tĩnh bất minh, nếu toàn trống trãi mà không kín đáo, thì khí tán mà không thâu.
Kinh thi nói:Cao sơn đảnh thượng không vô huyệt, vô thành vô môn bất kết huyệt
Lại nói ” Thừa phong thì tán, giới thủy thì dừng “
          Trong đô thiên bảo chiếu kinh cũng nói đến thành môn : “Ngũ tinh nhứt quyết phi chân thuật. Thành môn nhứt quyết tối vi lương. Thức đắc ngũ tinh thành môn quyết. Lập trạch an phần đại cát xương”, bởi lẽ ấy “ thành môn quyết”là phần trọng yếu hạng nhất trong lý luận phong thủy.

Thành thị ngày xưa, chu vi bốn phía có những bức tường cao lớn vây quanh, ở đông – tây – nam – bắc các phương thiết lập các cửa thành để cho người xe ra vào, thành tường cao lớn 4 mặt 8 phương vây kín, nên khí của khu thành này tập trung lại, chỉ có cửa thành là có khí nhập xuất, động khí thông khí, chính là “bát quốc thành môn tỏa chính khí”. Vì vậy Huyền không bản nghĩa viết “Nói bát quốc, chính là nói hình tượng bao quanh, nói thành môn là nói nơi thông khí của cái nơi bao quanh đó, có vây kín mà không có nơi thông thì âm dương không định được, động tĩnh không định được, nếu toàn trống không mà không vây lại thì tất khí sẽ bị tản khó mà thu được”.
         Về nguyên lý, ứng dụng thành môn quyết chính là đem thành môn đặt tại linh thần phương, tại vì thành môn là nơi động khí nên phải để ở linh thần phương thì mới cát, sau đó đem âm dương trạch thu cát khí của thành môn.
Trên phương diện ứng dụng phong thủy
• Trước tiên từ hình thể bên ngoài, chu vi hoàn cảnh để nhận định vị trí của thành môn, sau đó căn cứ phép tắc lý khí để phán đoán ảnh hưởng cát hung của thành môn, trong lúc phán đoán hoàn cảnh bên ngoài thành môn, có thể căn cứ vào các điểm sau đây:
1. Âm dương trạch 4 phía có sơn (hoặc các vật kiến trúc cao tầng) bao quanh, chỉ chổ nào độc có khuyết khẩu.
2. Bốn phía của âm dương trạch chỗ nào (phương nào) có đường thủy giao hội, có từ hai đường trở lên, hình thành một ngã ba thủy (tam xoa thủy).

3. Đường lộ trong thành thị hình thành các ngã ba, ngã tư, lộ khẩu.
4. Nơi uốn khúc của sông ngòi hoặc nơi uốn khúc của con đường, hai bên trái phải có đầm ao hoặc là nơi nước đọng lại.
Từ những vị trí đã được xác định mà ta có thể lập tọa hướng cho âm dương trạch.
• Thứ hai là xác định hướng linh thần để căn cứ từ đó mà lập hướng.
• Thứ ba là cần có đồng nguyên long mới tốt.

Mười sửu – Đức trọng

Giải trừ các thế sát phong trong phong thủy

0

Giải trừ các thế sát phong trong phong thủy.

Nơi thờ phượng như nhà thờ, chùa, đình, miếu… thường được xây dựng nơi có linh khí, nếu địa chưa được linh thì về sau nhờ nhiều tín đồ thường xuyên cầu nguyện, hay do nhang khói cùng những lời vái van cuả thập phương bá tánh nên sinh khí tích tụ ngày càng nhiều, lâu năm cuộc đất này sẽ biến thành điạ linh.

Những căn nhà nằm đối diện với nơi thờ phượng đều bị trúng thế Cô dương sát, vượng khí trong nhà bị nơi thờ phượng cuốn hết.

– Làm hàng rào colourbond màu sắc theo ngũ hành tương khắc đối với màu cuả căn nhà làm nơi thờ phượng và tương sinh với mệnh gia chủ.

– Treo gương bát quái phía trên chính giữa cửa trước để triệt tiêu sức hút để giữ vượng khí lại trong căn nhà. Nếu căn nhà không trực diện với nơi thờ phượng mà nằm lệch một bên thì dùng gương lồi là đủ.

– Hoặc trồng một giàn bông giấy ở cạnh hàng rào phía trước để ngăn chận, giàn này phải cách xa cửa chính hơn 5m.

– Treo hai phong linh ở hai bên, góc dưới mái nhà phía trước.(st)

Cắt cước có nghĩa là cắt chân, bị què quặt, không đủ sức chiến đấu. Đó là các nhà ở sát bờ biển (không có con đường trước nhà), kế bên xa lộ hay cạnh đường rầy xe lửa, hoặc gần đường phi đạo.

Nhà ở sát bờ biển — Cách hóa giải:

– Nên trồng hàng cây chặn gió từ phiá biển thổi vào nhà (phải cao hơn cưả ra vào), nếu không trồng được hàng cây thì nên để các chậu cây kiểng trấn án.

– Làm hàng rào colourbond màu vàng lợt (cream) hoặc vàng xanh lá cây.

– Cất thêm mái che, chung quanh được bao bọc bởi kiếng hoặc perspex trong suốt và hành lang bên trong nên treo một quả thủy tinh cầu (crystal ball) để hoá giải âm khí.

– Mặc dù có bức tường ngăn chận tiếng ồn phát ra từ sự vận chuyển của xe cộ, gia chủ cũng nên trồng hàng cây hoặc đặt nhiều chậu kiểng để thu hút trọc khí do động cơ nổ thải ra. Bên trong cũng nên có một cây kiểng loại indoor và nhất là đặt hồ cá chỉ nuôi một con hoặc mười con (mười tính 1).

Nhà cạnh đường rầy xe lửa — Cách hóa giải:

– Làm hàng rào colourbond màu sắc theo ngũ hành tương sinh đối với mệnh của gia chủ.

– Trồng giàn bông giấy màu đỏ, trắng hoặc tím để che chắn ác khí.

– Phía trên cưả ra vào gắn một gương lồi nhỏ có đường kính trên 50mm.

– Loại nhà này bị nặng nhất trong các thế Cắt cước sát, không thể hoá giải. Theo khoa Phong Thuỷ, nơi mà khí bị chuyển động bất thường thì khí vùng đó sẽ bị đảo điên. Thử nghĩ mỗi ngày có hàng ngàn chuyến bay lên xuống, nội tiếng ồn cũng đủ làm cho con người bị giảm thọ, huống chi rủi ro bị “tai bay họa gửi”?

– Chỉ có thể giải trừ bằng cách bán hoặc cho người khác mướn, tức “Tam thập lục kế, tẩu vi thượng kế” (ba mươi sáu kế, chạy là thượng sách).

Theo binh pháp, người cầm quân phải biết tiến thoái, chạy để bảo toàn lực lượng không phải là thua. Dương trạch cũng vậy, nếu gia chủ không sớm rời xa thì sẽ gánh lấy thiệt hại do tai họa gây ra.

Posted Image

Còn gọi là “Khẩn thủy trược tẩu”, có nghĩa là nước chảy xuống bên dưới quá nhanh, không thể đọng lại trên mặt đất, do đó khí không thể tụ.

Nhà ở trên núi cao, hay nhà nằm trên vị trí thế đất cao, đất ở phía trước và phía sau thấp có độ dốc trên 35 độ (tính từ mặt đường), hoặc cao ốc đứng riêng biệt không có các cao ốc khác ở kế cận.

a) Phía sau là vực thẳm hay thế đất thấp sâu, nước không thể đọng lại khi mưa lớn.

– Loại nhà này không thể hoá giải, một là ở lại chấp nhận thương đau, hay là bỏ chạy lấy người. Tốt nhất, gia chủ nên chọn cách thứ hai: dù lỗ cũng phải bán, lấy tiền mua căn nhà khác để tránh hậu hoạ.

– Khoa Phong thủy khuyên không nên cất nhà nằm đơn độc trên đỉnh núi, đồi, hay nơi có thế đất cao hơn đất ở xung quanh. Vì các vị trí này dễ bị sấm sét, cuồng phong bão tố và nhất là vì không có nước nên khí không tụ (gió làm tan khí), cuộc đất không thể sinh vượng, những người cư ngụ sẽ bị tai họa hay bệnh hoạn (ở trên cao, nên thường nhận các tia ác xạ, phóng xạ độc hại từ bên ngoài cũng như bên trong trái đất).

B) Phiá sau dựa lưng vào vách núi cheo leo hiểm trở, không có cây cối hay chỉ có cây khô và vài tảng đá nằm ở vị thế như sắp sưả lăn xuống.

Phiá trước nhà:

– Trồng hai trụ sắt hai bên drive way để giữ khí (phía trong đất cuả gia chủ). Mỗi trụ có đường kính 120mm trở lên (đổ concrete vào bên trong), sau khi chôn xuống đất còn cao 1m2, phía trên hai trụ này đặt hai bóng đèn 60 watts, cho cháy sáng mỗi đêm từ 8-10 giờ tối.

– Treo phong linh bên dưới mái hiên, phía bên phải (từ cửa chính nhìn ra). Mỗi khi nghe âm thanh của phong linh vang lên liên tục, nên khép bớt hoặc đóng cửa lại ngăn ác khí.

– Xây tường bằng gạch hay bằng đá (chận trọc khí), có sắt bên trong, cao 2m4 để có đủ sức ngăn chận các tảng đá có trọng lượng 100 kg lăn xuống.

– Trồng hàng cây xanh cạnh bức tường để cho sinh khí được vượng mới mang lại sự tươi vui và hưng thịnh của gia chủ.

– Phía trước trồng hai cột sắt hai bên drive way ở ngay cổng, phía trong đất của gia chủ. Mỗi trụ có đường kính 120mm trở lên, sau khi chôn xuống đất còn cao 1m2, phía trên hai trụ này đặt hai bóng đèn 60 watts, cho cháy sáng mỗi đêm từ 8-10 giờ tối.

– Phía sau treo một phong linh dưới mái bên trái từ cửa nhìn ra vách núi để thu hút sinh khí.

Cao ốc đứng riêng biệt

– Nằm trên cao nên dễ bị các tia ác xạ (tác động nghịch của từ trường trái đất và từ trường của các hành tinh tạo ra sự xung đột mà thành, các tia này sẽ tách rời phóng xuống mọi nơi cao trên mặt đất, khoa học gọi các tia đó là tia ác xạ). Trúng tia ác xạ con người thường bị mệt mỏi, nhức đầu, không còn sáng suốt để làm việc. Nếu cường độ của tia ác xạ quá mạnh sẽ gây ra ung thư cho những người trúng phải nó.

– Treo gương lồi có đường kính lớn hơn 20cm bên ngoài cửa sổ phòng ngủ.

– Đặt một hồ cá kiểng (1.4m x 70cm x 50cm) tại phòng khách, nuôi nhiều cá. Nếu chăm sóc kỹ, cá vẫn chết thường xuyên, cần phải xem xét lại.

– Để cây kiểng bên cạnh hồ cá. Nếu cây này ngày càng tàn úa, thay cây khác vẫn không xanh tươi thì tốt nhất nên dọn đi nơi khác để tránh hiểm nguy.

Nhà ở bên trái của con đường chữ L hay bên phải chữ L ngược phía, con đường giống như lưỡi dao chém vào căn nhà.

Cách hóa giải:

– Bên hông nhà về phía có con đường làm hàng rào colourbond cao 1m8, màu sắc theo ngũ hành tương sinh đối với mệnh gia chủ.

– Bên hông gần hàng rào nhà, trồng một hàng 8 cây tùng hay cây bách để trấn án.

– Hoặc trồng một cột sắt lớn (đường kính 30cm, cao 80cm), trên có ngọn đèn, có chụp tròn bao phủ. Cột này nằm trong phần đất của gia chủ, càng gần con đường càng tốt.

– Tránh đặt gương phản chiếu dọc hông nhà, vì gương sẽ tạo ra ảnh ảo, tức thêm hình lưỡi dao phía đối diện nên sẽ bị họa hại nhiều hơn.

Nhà có đất rộng chiều ngang phía trước, xe ra vào bằng hai cổng, một bên vào, một bên ra. Drive way này có hình cánh cung, bề lồi hướng vào cửa nhà.

Cách hóa giải:

– Đổ concrete thêm, làm cho cánh cung này trở thành hình chữ nhật.

– Hoặc xây bồn phun nước, hình tròn ở chính giữa sân.

– Hay đặt nhiều chậu cây kiểng thấp khoảng 1m để che chắn, phía trên cửa chính treo một gương lồi.

Đối diện với căn nhà, phía bên phải bên kia đường có một mái nhà lớn hình chữ L ngược đầu, như lưỡi của máy chém ở vị trí sẵn sàng rơi xuống bất cứ lúc nào.

Hóa giải bằng cách sơn tường và mái nhà đang cư ngụ xung khắc (theo ngũ hành) với màu của mái nhà lớn hình chữ L ngược đầu.

Thí dụ mái nhà hình chữ L ngược đầu sơn màu grey (Kim), căn nhà của gia chủ đã có tường gạch đỏ (Hỏa), mái ngói màu đỏ (Hỏa), coi như tự nó hóa giải.

Là dương trạch nào ở gần bên nhà quàn, kế nhà xác, sát bên bệnh viện hay khu vực nghĩa trang, bị sự tích tụ của loại khí nặng nề tức âm khí và tử khí.

Cách hóa giải:

– Làm hàng rào colourbond màu đỏ, màu burgundy (triệt tiêu âm khí).

– Đặt gương phản chiếu (40cm x 4m) cách mặt đất 40cm đối diện với các nơi trên (phản hồi tử khí).

– Treo 4 phong linh dưới mái 4 góc nhà (phá sự tích tụ của âm khí).

– Gắn đèn neon bốn phía (cháy sáng từ 8 đến 10 giờ tối) và gắn đèn tự động sáng khi có người bước vào (ngăn chận và phá sự xâm nhập của âm khí).

– Treo bát quái tại cửa chính, nếu nhà nằm trực diện (triệt tiêu âm khí và tử khí).

– Trong nhà nên treo 4 thủy tinh cầu nơi thiếu ánh sáng (tạo sinh khí).

– Nên đóng cửa chính khi mặt trời lặn, và mở cửa khi mặt trời mọc (chận âm khí, thu dương khí).

Nhà bị con đường lộ đâm xéo tới là bị trúng Tà thương sát. Nếu đâm vào bên trái cửa ở vị trí của Thanh Long, người nam bị tổn hại, nếu đâm bên phải ở vị trí của Bạch Hổ, người nữ bị thiệt thòi. Nếu bị ngay chính diện cửa thì tất cả những người cư ngụ đều bị tổn hại về tài sản.

-Làm hàng rào colorbond cao 1m8 ngăn chận và trồng hàng cây che chắn bên trong.

– Nếu nhà có tầng lầu, phía trên treo hoặc đặt một gương lồi loại 20cm đến 30cm trực diện với con đường đâm vào nhà.

– Làm hồ phong thủy phía trước nhà để giữ sinh khí. Dùng hệ thống điện tự động mở nước chảy ban ngày, tắt ban đêm.

Phía sau tòa nhà đối diện trên cao nhất có mái hiên (như carport). Hình tòa nhà đối diện này có phần trên là cổ, phần dưới là thân, nhìn từ xa giống như mất đầu, nên gọi là Thám đầu sát (người xưa gọi là Thảm đầu sát, thảm là thảm khốc, thảm thương, rùng rợn vì mất đầu nên người đời sau tránh né đọc trại ra thành Thám).

Vì trong Thám đầu sát đã có sẵn Kiệu sát, nên muốn hóa giải thế này trước hết phải hóa giải thế Kiệu sát, sau đó hóa giải thế Thám đầu sát như sau:

– Đặt hai con kỳ lân màu vàng (Thổ) trên trụ gạch hai bên cổng vào, nhìn về hướng tòa nhà đối diện. Để một con rồng màu đen (Thủy) trên nắp hồ cá cảnh trong nhà. Phía sau đã có con rùa màu đỏ (Hỏa), trong hồ cá cảnh đã có sáu con cá màu hoàng kim (Kim) trong phần hóa giải Kiệu sát. Phía trước bên trái cửa chính đặt một chậu cây kiểng hình chim phượng hoàng (Mộc). dùng biểu tượng Tứ linh (Long, Lân, Quy, Phụng) phối với ngũ hành mới giải trừ được thế Thám đầu sát này.

Trong khu vực nhà đang ở có tiếng động thường xuyên từ hãng xưởng, như tiếng búa đập tại các lò rèn và nơi làm cửa sắt hay tiếng nổ lớn của máy xe nơi “độ xe đua”.

Nhà bị âm thanh hoặc tiếng động lớn hay nhỏ thường xuyên xảy ra là bị Thanh sát.

– Treo phong linh ở bốn góc nhà, loại lớn nhất.

– Mở nhạc vừa đủ nghe bên trong nhà để giảm bớt tiếng động bên ngoài.

– Nới thêm phòng kiếng để ngăn chận bớt âm thanh, nhớ treo thủy tinh cầu ngay chính giữa phòng này.

Thanh sát chỉ xảy ra vào ban ngày trong giờ làm việc, nếu gia chủ và những người cư ngụ đều đi làm ban ngày thì không cần hóa giải, nếu âm thanh hoặc tiếng động còn xảy ra sau giờ làm việc, báo cho Hội đồng Thành phố (Council) giải quyết.

Đối diện trước cửa nhà có vách đá dốc thẳng hoặc đứng trước cửa nhìn thấy một ngọn núi cao là căn nhà bị trúng thế Thích diện sát.

Cách hóa giải:

* Đối diện trước cửa nhà có vách đá dốc thẳng

– Trồng hàng cây để che chắn, để người ngồi trong nhà hay đứng ngay cửa không trông thấy vách đá đó.

– Treo hai phong linh bên dưới mái nhà phía trước.

* Đứng trước cửa nhà nhìn thấy một ngọn núi cao

– Đặt hai con Kỳ Lân màu vàng (Thổ) trên trụ gạch hai bên cổng vào, nhìn về hướng ngọn núi cô độc.

– Treo gương lồi nhỏ, có đường kính 6cm trên khung cửa đối diện.

– Bên trong nhà nên treo quả thủy tinh cầu màu xanh nước biển lợt.

Khoảng giữa hai dãy nhà, có một con đường chính giữa chĩa thẳng vào nhà đang ở, gió thổi tới rất mạnh làm khí không thể tụ gọi là Thiên trảm sát. Sát khí này từ khoảng trống xông tới nên nó là hư sát.

Cách hóa giải:

– Trồng hàng cây tùng hoặc bách để ngăn chận ác khí này.

– Làm bồn phun nước nổi, hình tròn (cao 80cm, đường kính rộng 4m), có hòn non bộ (giữ sinh khí), chung quanh bên trong vòng tròn có trồng cây kiểng.

– Treo phong linh ở giữa mái nhà phía trước, khi nào nghe phát ra âm thanh liên tục, nên đóng cửa chính lại.

Đối diện phía trước nhà là con đường cụt (no through road), nhà này bị kẹt vào thế Thương sát.

Cách hóa giải:

– Làm bồn phun nước nổi, hình tròn (cao 80cm, đường kính rộng 4m), có hòn non bộ (giữ sinh khí), chung quanh bên trong vòng tròn có trồng cây kiểng (hút ác khí).

– Hoặc trồng giàn bông giấy màu đỏ che chắn trước cửa chính, giàn bông này phải cách cửa chính hơn 5m.

– Hay làm hàng rào colourbond cao 1m8 ở phía trước để ngăn chận ác khí, đồng thời dán loại vinyl reflextive vào phần trên của kiếng các cửa sổ để phản chiếu ánh đèn xe vào ban đêm.

Nhà đang nằm ở dưới thung lũng hay phía sau có con suối, ao hồ tù hãm. Nhà ở vùng đất thấp ẩm ướt quanh năm suốt tháng hay nhà có đất nền cửa cao hơn thế đất bên trong. Các căn nhà bị ngập lụt hoặc đọng nước khi có mưa lớn, tuy vượng thủy nhưng không thể hấp thụ được vượng khí nên bị liệt vô thế Thủy tinh sát.

* Nhà đang nằm ở dưới thung lũng hay phía sau có con suối, ao hồ tù hãm.

– Làm hàng rào colourbond màu xanh lá cây lợt (mộc) cao 1m8.

– Sơn vách và mái nhà màu xanh lá cây (mộc) nếu được.

– Treo một cây quạt xếp trong phòng khách (khi cuốn quạt lại, chiếu dài từ 76cm đến 80cm) dùng biểu tượng quạt trấn bại khí.

* Nhà ở vùng đất thấp, ẩm ướt quanh năm suốt tháng.

– Thông thường các nhà này được Council tài trợ để đưa phòng ốc lên cao, nếu không được xét tài trợ nên đổ concrete cho nền cao lên, chung quanh cũng nên đổ tráng để sân không bị ẩm ướt, chỉ chừa lại phần landscaping trồng cây kiểng.

– Treo hai thủy tinh cầu bên trong nhà, cách cửa chính và cửa sau 4m.

– Trồng bốn gốc nhà bốn cây, loại lớn cần hút và tiêu thụ nhiều nước.

– Đổ concrete ngoài sân hoặc lót gạch màu vàng thổ (paving).

* Nhà có đất nền ngạch cửa cao hơn thế đất bên trong.

– Nếu trời mưa, nước không bị ngập bên trong thì không bị ảnh hưởng. Nhưng nếu bị ngập nước, phải đổ nền lên ngang bằng ngạch cửa.

– Lót gạch bông màu vàng cream bên ngoài và bên trong nhà (thổ khắc thủy).

– Treo quả thủy tinh cầu loại lớn chính giữa nhà để thấy ấm cúng và thông vượng khí.

Đối diện phía trước căn nhà có vật thể nhọn hay bên kia đường có góc tường cao ốc chĩa thẳng vào cửa chính (góc 45 độ) giống như mũi tên bắn tới là bị phạm thế Tiễn xạ sát. Vì góc nhọn chĩa tới, sát khí theo đó tiến thẳng vào nhà, đây là thực sát.

Nếu ngay vật thể nhọn hay góc tường cao ốc bên kia đường, có hàng rào colourbond, cây án sẵn ở bên đó

hoặc đã có cây che phía bên này, vô hình chung nó đã bị vô hiệu hóa ảnh hưởng tác hại, không cần hóa giải.

Bằng không, cách hóa giải như sau:

– Trồng hàng cây che chắn trực diện với góc nhọn.

– Làm hàng rào colourbond 1m8 để che chắn.

– Treo một thủy tinh cầu trực diện với vật thể nhọn hoặc góc tường cao ốc.

Nhà nằm ở vị trí giữa ba hay bốn con đường giao nhau như chữ Y hay chữ X, hai cạnh của hai con đường (nằm hai bên căn nhà) giống như lưỡi kéo sắp cắt đôi căn nhà này, theo khoa Phong thủy thế này là Tiễn đao sát.

Cách hóa giải:

– Làm hàng rào colourbond màu burgundy (hỏa) 1m8 để che chắn, đồng thời trồng hàng cây tùng loại cao dọc theo bên trong hàng rào.

– Hoặc trồng hai trụ sắt (đường kính 14cm, trong có concrete) hai bên phía trước, cách góc nhọn nhà trong khoảng 1m.

– Nếu nhà có tầng lầu, phía trên lầu nên đặt một gương lồi đối diện với con đường.

Nhà nằm dưới triền núi, bên trên có tảng đá lớn nằm cheo leo sắp rớt.

Nhà nằm cạnh mặt đường nhưng ở thế đất thấp sâu bên dưới con đường.

Nhà nằm bên dưới, cạnh xa lộ cao bên trên.

Cả ba đều bị phạm thế Tuyệt mệnh sát. Vị trí này làm cho khí đến và đi rất nhanh, ác khí hoặc trọc khí tích tụ bao quanh nên tai nạn thường xảy ra bất ngờ.

* Nhà nằm dưới triền núi, bên trên có tảng đá lớn nằm cheo leo sắp rớt.

– Xây hàng rào bằng đá dài bằng chiều ngang căn nhà, cao 1m8, bề dầy 80cm.

– Trồng bốn cây Palm gần hàng rào, loại có rễ chắc chắn để ngăn chận.

– Đặt một chậu kiểng (cây lucky) trong phòng khách, nơi người ngồi thường xuyên nhìn đến.

Nếu bên trên không có tảng đá cheo leo sắp rớt, gia chủ không cần hóa giải vì căn nhà không bị thế Tuyệt mệnh sát. Hoặc có căn nhà khác nằm độn giữa che chắn tảng đá cheo leo là tự nhiên căn nhà được hóa giải, không cần bận tâm.

* Nhà nằm cạnh mặt đường nhưng ở thế đất thấp sâu bên dưới con đường. Nhà nằm bên dưới, cạnh xa lộ cao bên trên.

Hai loại nhà này trúng thế Tuyệt mệnh sát rất nặng, không thể hóa giải, tốt nhất nên giải trừ bằng cách dọn đi nơi khác để tránh cảnh “theo ông bà” một cách “bất đắc kỳ tử”.

Xung thiên có nghĩa là bốc lên. Nhà ở trong khu vực lò luyện thép, nhà máy chế Ciment, Concrete. Mở cửa ra là thấy ống khói đang phun lửa hay khói đang bốc lên. Nhà này bị triệt vì thế Xung thiên sát. Trọc khí bao phủ cả vùng nên những ai ở trong căn nhà này đều bị bệnh.

Cách giải trừ hay nhất là nên dọn đi nơi khác (cho dù bị lỗ vốn) để tránh bị giảm thọ.

Nhà bị con đường trước mặt chĩa thẳng vào (nhưng nếu phía trước căn nhà có round about thì tác hại của ác khí bị hóa giải). Hay đối diện phía bên kia đường có trụ điện hoặc cây lớn án ngay cửa chính (nếu ngã đổ về phía nhà sẽ đúng ngay trung tâm) cả hai đều bị Xuyên tâm sát.

* Nhà bị con đường trước mặt chĩa thẳng vào.

– Làm hàng rào colourbond màu burgundy, cao 1m8 trước nhà để che chắn, đồng thời trồng hàng cây dọc theo bên trong hàng rào.

– Treo bát quái ngay giữa, trên khung cửa chính. Nếu có lầu, các cửa số phải được dán lớp vinyl reflextive, phản chiếu ánh đèn xe vào ban đêm.

– Làm bồn phun nước nổi, hình tròn (cao 80cm, đường kính rộng 4m), có hòn non bộ (giữ sinh khí), chung quanh bên trong vòng tròn có trồng cây kiểng (hút ác khí).

* Đối diện căn nhà phía bên kia đường có trụ điện hoặc cây lớn án ngay cửa chính.

Nếu được dời cửa chính qua vị trí khác, bằng không nên:

– Lập một cột cờ trực diện với trụ điện hoặc cây lớn, cao 4m, trên có treo lá cờ Úc có chiều dài 1m2, chiều ngang 60cm.

– Đặt hồ cá cảnh trong phòng khách, nuôi một con cá (nhất bạch tham lang hành Thuỷ). Nên nuôi cá La Hán.

Ngũ Quỷ Vận Tài

0

Ngũ Quỷ Vận Tài

Bài viết của Trúc Phong ẩn sĩ

Ngũ Quỷ Vận Tài bí pháp, là một cách cục trong Phong thủy, trong đó lợi dụng sự bài bố của Cửu tinh để đem lại tài vận một cách nhanh chóng. Trong phong thủy còn gọi là cách “cứu bần”, tức có thể tức thời làm cho người ta có được tiền tài. Tuy nhiên, tài vật trên đời vốn dĩ có căn nguyên, chớ thấy lợi trước mắt mà ham, khi áp dụng nên cẩn trọng.

Tôi viết lại phép này, để mọi người tham khảo, lấy cơ sở nghiên cứu thêm vì trong sách vở thì cũng có nhắc đến, nhưng hầu như chưa được đầy đủ. Nhất là phần “Phụ tinh thủy phái phối quái” là phép của Thủy long, vốn khác với phép của Sơn. Khi đọc nên tường tận.

 Ngũ quỷ vận tài định cục

“Ngũ Quỷ vận tài phong thủy cục”, có nguồn cơn từ Cửu tinh pháp, còn được gọi là Thiên tinh pháp. Liên quan đến CỬU TINH, Cửu tinh tức là 9 sao trong hệ Bắc đẩu, gồm :Tham lang (Thiên khu)

Cự môn (hiên tuyền

Lộc tồn (Thiên Cơ)

Văn khúc (Thiên quyền)

Liêm trinh (Ngọc hoành

Vũ khúc (Khai dương)

Phá quân (Dao quang)

Tả phụ (Động minh)

Hữu bật (Ẩn quang)Cửu tinh – tại Thiên thì là Tượng, tại Địa thì là Hình. Cho nên TRÊN mà xem Thiên tượng, thì có thể biết được sự biến hóa của trời đất. DƯỚI mà biện địa hình, có thể biết được giầu nghèo họa phúc của nhân gian. BIỆN địa hình, chính là chí về môn Phong thủy.

Nói về Ngũ Quỷ vận tài, tức là nói đến Lý luận Long, Hướng, Thủy của Cửu Tinh pháp. Trong phép này thì hai sao Phụ-Bật hợp lại thành một, gọi là Phụ tinh. Nếu vận dụng được phép này, thì có thể làm cho người ta phát cự phú nhất thời. Địa lý của tự nhiên, phải được phối hợp với con người trong tự nhiên, mới có thể bổ trợ cho nhau, khiến cho người ta giầu có.

Khẩu quyết của Ngũ Quỷ Vận Tài : “ Sơn long Liêm Trinh hữu Hướng, Thủy long Cự Môn kiến Thủy”

Giải thích về khẩu quyết này, thì Ngũ Quỷ tức là chỉ Liêm trinh (Trong Cửu tinh, Liêm trinh thuộc Ngũ Quỷ). Tài tức là chỉ về Thủy (trong Phong thủy, Thủy chủ tài). Nhờ có Thủy mà phát tài.

Ngũ Quỷ Vận Tài : Tọa là SƠN LONG, Hướng là THỦY LONG. Ngoài địa hình Sơn long và Thủy long đều lập được một quẻ theo phép thông thường. Dựa vào Tịnh Âm, Tịnh Dương cùng với Nguyên lý nạp giáp của 24 sơn. Lập Sơn Long trên phương vị Liêm Trinh, trên phương vị Cự môn có Thủy, tức là Ngũ Quỷ Vận Tài. Trong Dương trạch, Khai môn, hoặc đặt cửa sổ, hoặc vị trí nạp khí vào phương vị Liêm Trinh, làm sao cho phương vị Cự Môn có Thủy thì tức là Ngũ Quỷ Vận Tài.

Cửu tinh phối với Bát Trạch :

Phụ tinh — phục vị

Tham lang — sinh khí

Cự môn — thiên y

Lộc tồn — họa hại

Văn khúc — lục sát

Liêm trinh — ngũ quỷ

Vũ khúc — diên niên

Phá quân — tuyệt mệnh

Phần trên là nói về thuật Ngũ Quỷ Vận Tài, cụ thể sẽ tham khảo dưới đây :

I. CƠ SỞ :

+ Bát quái nạp giáp : phép này chỉ dùng “tam hào quái nạp giáp” (khác với phép Hỗn thiên nạp giáp):

+ Tịnh âm, tịnh dương : Là Âm Dương của 24 sơn hướng theo Tam hợp (khác với Âm Dương của Huyền không).

+ Phép biến hào của Sơn Long:

Phép này lấy Tọa sơn lập quái, dùng phép biến quái để bài bố cửu tinh, còn gọi là “bài long pháp”. Phép này, láy 3 hào trong quẻ để tiến hành biến hào, Hào biến thì Quẻ sẽ biến theo. Quẻ sau khi biến ra, lại phối hợp với phép nạp giáp để bài bố cửu tinh. (biến hào là từ hào dương đổi thành hào âm và ngược lại).

  • Trình tự biến hào : biến các hào theo thứ tự từ : Thượng – Trung – Hạ – Trung – Thượng – Trung – Hạ – Trung.
  • Cửu tinh thì bày bố thuận theo thứ tự : Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, Phụ Bật.

+ Phép biến hào của Thủy Long:

Bởi vì phép này lại lấy Hướng để lập quẻ khởi Phụ tinh, nên còn được gọi là “Phụ tinh thủy pháp phối quái”. Cũng như Sơn long, phép này lấy hướng để lập quẻ khởi Phụ tinh, theo thứ tự mà biến hào, hào biến thì quẻ biến, sau đó lại đem phối với Cửu tinh.

  • Trình tự biến hào, thuận theo thứ tự : Trung-Sơ-Trung-Thượng-Trung-Sơ-Trung.
  • Cửu tinh bài bố thuận theo thứ tự : Phụ Bật, Vũ Khúc, Phá Quân, Liêm Trinh, Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc.

II. TÁC PHÁP CỤ THỂ VÀ VÍ DỤ ỨNG DỤNG:

  • Tác pháp (cách làm) :

+ Sơn long là Liêm trinh làm hướng

  • Lấy Tọa sơn để lập quẻ (tọa sơn gọi là Sơn Long)
  • Dùng phép “bài long biến hào phiên quái” (đã trình bày ở trên) để bày bố Cửu tinh.
  • Dựa vào “tịnh âm, tịnh dương” cùng với nguyên lý “Nạp giáp tam hào” để nạp cho 24 sơn
  • Tìm xem Liêm Trinh ở đâu, lấy đó để làm Khí Khẩu, hoặc Thủy Khẩu. Có thể khai môn hoặc đặt cửa sổ 2 cánh để nạp khí, gọi là “thu sơn xuất sát” (trong Âm trạch thì lập Hướng Liêm Trinh).

+ Thủy long là Cự môn thấy Thủy :

  • Theo trên lập quẻ (Hướng Sơn gọi là Thủy long)
  • Dùng phép “Thủy long biến hào phiên quái” (đã trình bày ở trên) để bày bố Cửu tinh.
  • Dựa vào phép nêu trên để nạp vào 24 sơn.
  • Tìm xem Cự môn ở đâu, lấy vị trí của Cự môn này để mà bố trí Thủy lai.

Như trình bày ở trên tức là phép “Ngũ quỷ vận tài” của Phong thủy.

  • Ví dụ ứng dụng : Ví dụ cho trường hợp sơn Tân, hướng Ất (tọa Tân hướng Ất)

+ Sơn long là Liêm trinh :

  • Tọa sơn tức là Sơn long, lấy để lập quẻ, được chữ Tân, mà Tốn thì nạp Tân (phép nạp giáp), nên lấy Tốn để lập quẻ.
  • Sơn long biến hào phiên quái, quẻ Tốn biến như sau :

Khảm->Khôn->Chấn->Đoài->Càn->Ly->Cấn->Tốn

Tham->Cự->Lộc->Văn->Liêm->Vũ->Phá->Phụ

  • Đem nạp vào 24 sơn
  • Tìm phương của Liêm Trinh, Liêm trinh tại Càn, Càn lại nạp Giáp, nên Liêm trinh ở phương vị Càn và Giáp.
  • Đối với Âm trạch lấy Liêm trinh làm hướng, Đối với Dương trạch thì lấy phương Càn, phương Giáp để khai môn hoặc bố trí cửa số.

+ Thủy long là Cự môn thấy Thủy :

  • Hướng sơn là Thủy Long, lấy hướng lập quẻ. Được hướng Ất, mà Khôn thì nạp Ất, nên lấy Khôn để lập quẻ.
  • Dùng phép “thủy long biến hào phiên quái” để bài bố Cửu tinh. Như sau :

Khôn->Khảm->Đoài->Chấn->Ly->Càn->Tốn->Cấn

Phụ->Vũ->Phá->Liêm->Tham->Cự->Lôc->Văn

  • Đem nạp vào 24 Sơn
  • Tìm xem phương vị Cự môn ở đâu : Cự môn tại phương Càn, mà Càn nạp Giáp nên Cự môn ở hai phương Càn, Giáp.

Nếu thấy hai phương này mà có Thủy thì là đắc phép “Ngũ quỷ vận tài”.

Trên là ví dụ cho Phép “Ngũ quỷ vận tài” ứng dụng của Phong Thủy. Các trường hợp khác thì phỏng theo đó mà làm.

III. NGŨ QUỶ VẬN TÀI LONG-HƯỚNG THỦY PHÁP:

  • Căn cứ vào lý luận trên, cổ nhân lập hướng thủy pháp như sau :
  • Khôn long, lập Chấn Canh Hợi Mùi hướng, là “ngũ quỷ lâm môn”, được Tốn Tân thủy hay môn lộ, là “đới cự môn tài lai”
  • Tốn long, lập Càn Giáp hướng, là “ngũ quỷ lâm môn”, khai Khôn Ất môn lộ, là “đới cự môn tài lai”
  • Ly long, lập Cấn Bính hướng, là “ngũ quỷ lâm môn”, khai Đoài Đinh Tỵ môn lộ, là “đới cự môn tài lai”
  • Đoài long, lập Khảm Quý Thân Thìn hướng, là “ngũ quỷ lâm môn”, khai Ly Nhâm Dần Tuất môn lộ, là “đới cự môn tài lai”
  • Cấn long, lập Ly Nhâm Dần Tuất hướng, là “ngũ quỷ lâm môn”, khai Khảm Quý Thân Thìn môn lộ, là “đới cự môn tài lai”
  • Khảm long, lập Đoài Đinh dĩ xú hướng, vi ngũ quỷ lâm môn, khai cấn bính môn lộ, là “đới cự môn tài lai”
  • Chấn long, lập Khôn Ất hướng, là “ngũ quỷ lâm môn”, được Càn Giáp thủy hay môn lộ, là “đới cự môn tài lai”
  • Càn long, lập Tốn hướng, là “ngũ quỷ lâm môn”, được Chấn Canh Hợi Mùi thủy hay môn lộ, là “cự môn đái tài lai”.

Ngoài ra, Lý khí còn dùng số Lạc thư Tiên thiên bát quái, tương đối rõ ràng.

  • Số 2 – Tốn là Hướng với số 9- Càn là “Lai long Lục hợp” Liêm trinh, Ngũ Quỷ, Thái dương.
  • Số 2- Tốn là Hướng với số 8 – Chấn là “Môn lộ hợp thập” Cự môn, Cự môn vốn chủ Tài, tài đến với mình, như cứu bần (cứu khỏi nghèo túng), nên gọi là Ngũ Quỷ Vận Tài vậy.

Ngũ Quỷ Vận Tài

0

“ Ngũ Quỷ Vận Tài” Đại ThànhNgũ Quỷ Vận Tài Cục theo như tôi biết có đến mấy loại khác nhau, dưới đây tôi xin đem trình bày mấy loại Ngũ Quỷ Vận Tài Cục để các bạn tham khảo mong được các bạn hưởng ứng :

1.Ngũ Quỷ Vận Tài Cục của Phái Bát Trạch: Phục Sinh Ngũ Diên Lục Họa Thiên Tuyệt, là tám phương vị của Bát Trạch, có người dùng Bát Trạch pháp, mở cửa Ngũ Quỷ, dùng Thiên Y Tài Lộ vận chuyển! Đây là một loại Pháp để tiến hành! Có người dùng Bát Trạch kết hợp với Phi Tinh Huyền Không, lấy cửa ở Ngũ Quỷ Liêm Trinh, dùng Nhất Bạch Tham Lang đáo môn khắc chế Ngũ Quỷ nên gọi là Ngũ Quỷ Vận Tài.

2.Đây là một phép khác của Bát Trạch, tức là Hình Lý kiêm dùng:
 Mở cửa Khôn, Cấn, vận chuyển Thiên Y Tài Lộ !

3.Phép này thuộc Phi Tinh Phái
, hoặc là dùng cách làm Phụ Tinh Thủy Pháp. Lợi dụng 24 Sơn Nạp Giáp, lấy chỗ đầu hướng lập quẻ, phiên quái bày chín sao, Án Tham Cự Lộc Văn Liêm Vũ Phá Phụ Bật chín sao thứ tự, tìm ra Cự Môn đường đến, mở Liêm Trinh Ngũ Quỷ Môn vận chuyển.

4.Phép này gần giống Phép thứ 3
, nhưng không lấy đầu hướng lập quái, mà lấy Tọa Sơn lập quái tìm ra Ngũ Quỷ Cự Môn đường đi.

5.Cách làm cũng tương tự phép Phụ Tinh Thủy Pháp
, tuy nhiên bên ngoài có vẻ hơi khác, tức dùng “Sơn long Liêm Trinh có hướng, Thủy Long Cự Môn thấy thủy”, tác pháp cũng dùng Nạp Giáp, phép này lấy Tọa Sơn lập quẻ, rồi phiên quái bài 9 sao, theo Tham Cự Lộc Văn Liêm Vũ Phá Phụ Bật thuận tự, cũng xưng là Bài Long Pháp, tìm ra được Liêm Trinh Ngũ Quỷ Môn; Tiếp dùng chỗ đầu hướng khởi Phụ tinh, án Vũ Phá Liêm Tham Cự Lộc Văn phiên xuất, được Cự Môn thủy lộ !

6.Cũng dùng Pháp như Pháp thứ 5, chỉ không giống là,
 được Cự Môn Thủy Lộ là không dùng Đầu Hướng Lập Quái, mà là dùng Tọa Sơn lập quái mà được. Tức cửa và đường đều dùng Tọa Sơn Lập Quái Phiên Xuất, song Phiên Pháp không giống.

Cứ như tôi thấy, cục Ngũ Quỷ Vận Tài, có tất cả 6 cách làm khác nhau! Các cách làm cũng có căn cứ lý luận của mình, tất cả đều là hình lý kết hợp, bốn cách sau, đều là căn cứ vào Phiên Quái, có lúc chỉ dùng Cửu Tinh Phiên Quái, có lúc chỉ dùng Phụ Tinh Phiên Quái, có lúc dùng kết hợp cả hai; Có lúc chỉ dùng Tọa Sơn lập quái, có lúc dùng Đầu Hướng lập quái có lúc dùng cả hai kết hợp.
Xin các bạn cũng đừng nhầm Ngũ Quỷ Vận Tài Pháp của Phong Thủy với Ngũ Quỷ Vận Tài Pháp của Sơn Thuật. Một là sắp đặt, lựa chọn về Phong Thủy, một là dùng Phù Chú để sai sử Ngũ Quỷ Tướng thuộc về Âm Pháp.
Ngũ Quỷ Vận Tài là một phép có thể nhanh chóng có được tài lộc, thường được dùng để cứu nghèo. Trương Cửu Nghi Tiên Sinh đã cảnh báo “Nếu không thật cần thiết thì không nên dùng ! Bởi dùng nó sau dễ phát sinh tai họa!”. Ngũ Quỷ Liêm Trinh thuộc Hỏa là “Âm Trung Tàng Dương”, hơn nữa Ngũ ở Trung Cung ngoại trừ đương vận thì dùng tốt, còn dư các lúc khác đều dễ có phản ứng xấu. Hỏa khắc kim tiết mộc nên dễ sinh các bệnh về gan phổi. Nên thận trọng vậy !
A Tư Tiểu Khang

NGUYÊN KHÔNG MẬT CHỈ.

0

Tư liệu tham khảo được Cụ TriTri cho phép.


NGUYÊN KHÔNG MẬT CHỈ.

Bất tri lai lộ, yên tri nhập lộ, bàn trung bát quái giai không. Vị thức nội đưng, yên thức ngoại đưng, cục nội ngũ hành tận thác. Thừa khí thoát khí, chuyễn ha phúc ư chỉ chưõng chi gian. Tả Ai Hửu Ai, biện cát hung ư hào man chi tế. Nhất thiên tinh đẩu, Vận dụng chỉ tại trung ương. Thiên biện liên hoa, Căn đế sinh ư iểm tích. Phu phụ tương phùng ư đạo lộ, khước him trở cách bất thông tình. Nhi tôn tận tại ư môn đình, do kị hung ngoan phi hiếu nghĩa. Quái Hào tạp loạn, dị tính đồng cư. Cát hung tương tính, minh linh vi từ.
Sơn Phong Trực Nhi Tuyn Thạch Cao Hoang.
Cấn chỉ Tốn phục, trí hửu sơn lâm chi tịch, nhân đinh chỉ sơn thượng ngôn, tài lộc chỉ thủy lý ngôn, 4 x 8 hoặc 3 x 8 đồng cung tổn tiểu khẩu
Ng Dậu Phùng Nhi Giang Hồ Hoa Tửu.
Ly vi mục vi tâm vi hỹ, oài vi duyệt vi Thiếp vi thiếu nữ, giai âm nhu quái, cố hửu nhu mỵ chi tượng, như 8 vận Bính sơn chủ bại phong tục đảng hoa tửu, hựu hửu thành phế lao giả, Ng Dậu, 9 x 7 dã, giai âm thần Ha khắc kim, Ng Dậu phùng chi hửu hồi lộc chi tai (cháy nhà).
Hư Liên Khuê Bích, Khải Bát ại Chi Văn Chương.
Hư Nhâm Dã, Khuê mộc, Bích thủy tại Kin Tuất chi gian, kỳ trung thủy mộc tương sinh, tuy cư kim thổ chi vị ,nhi hửu chế hửu hóa, cố hửu bát đại văn chương chi ứng, cái nhất nguyên nhi kiêm lưỡng nguyên, sở vị 1 x 6 cộng tông dã, (Hư nhâm dã khảm 1, Khuê kin dã Bích hợi dã, tức 1 x 6).

Vị Nhập ẩu Ngưu, Tích Thiên Thương Chi Ngc Bạch.

Vị oài dã, ẩu Ngưu Cấn dã, Cấn vi thiên thị viên, hựu 7 x 8 tương sinh, cố hửu cự phú chi ứng, Vị thổ Tân dã, Canh Dậu chi vị, ẩu Cấn dã, Ngưu sửu dã, tức 7 x 8.

Kê Giao Thử Nhi Khuynh Tả, Tất Phạm ồ Lưu.

Kê khuynh tả tán mạn bôn lưu dã, oài vi hình, Khảm vi Hãm, Khảm thủy lưu nhi bất phản, cố hửu sung quân chi tượng (Kê Dậu dã, ThửTý dã, tức 7 x 1).

Lôi Xuất ịa Nhi Tương Xung, ịnh Tao Trất Cốc.

Khôn vi Hình vi Tiểu Nhân, Chấn vi Mộc vi chính trực, Chấn mộc khắc khôn thổ, lại có trất cốc (gông cùm) chi tượng, xung chỉ thủy ngôn, thất nguyên sơn thủy tương xung, tất sinh quan phi, Lôi chấn dã, ịa khôn dã, tức số 3 x 2, (đấu ngưu sát). Thủy xung hướng, Sơn xung ta c giác xung đồng, Trất là cái cùm tay, Cốc là cái cùm chân.

Ha Khắc kim Kiêm Hóa Mộc, Số Kinh Hồi Lộc Chi Tai.

9 x 7, hoặc 4 x 3 đồng cung, hựu ngộ Lưu Niên Phi Tinh 1 bạch hoặc 3, hoặc 4, phi đáo tắc ha tai lập hiện, cái inh Nhâm hóa mộc 1 x 9 tương kích dã.

Thổ Chế Thủy Phục Sinh Kim, Tự Chủ in Trang Chi phú.

1 x 6, 1 x 7, tương sinh ngộ lưu niên Khôn Cấn 2 hoặc 8 phi nhập gia lai tựa him khắc chế 1 bạch, bất tri sinh kim ích thủy phản hửu đin trang chi ứng, Kin vi kim ngc, Khôn vi tài, vi đại nghiệp, Khảm vi nạp dã.

Mộc Kiến Ha Nhi Sinh Thông Minh Kỳ Sỹ.

Sơn thượng bài lai thị Chấn Tốn, thủy lý bài lai ngộ Ly, mộc ha thông minh cố sinh kỳ sỹ 9 x 3, hoặc 9 x 4 đồng cung, 9 x 4 thông minh, 9 x 3 bạo lệ nhuyễn nhược (mm yếu).

Ha Kiến Thổ Nhi Xuất Ngu ộn Ngoan Phu

Khôn vi minh hối, vi mê, tuy ngộ Ly minh tương sinh, nhi ha diệm táo cố xuất ngoan độn, thưng kiến hửu 9 vận lập Bính hướng inh Mùi Khôn phương trực cao sơn, xuất xuẩn tử; 9 x 2 đồng cung kị an phu thê sàng, 9 x 7, 2 x 7, đào hoa vị kị hồng sắc,

 

Vô Thất Gia chi tương y, Bôn tẩu ư đông tây đạo lộ.

Tiên nhân duyên chi tác hợp, kí thực ư nam bắc nhân gia.

Nam Nữ đa tình, Vô môi chước tắc vi tư chước.

Âm Dương tương kiến, ngộ oan thù nhi phản vô tình.

Phi chính phối nhi nhất giao, hửu mộng lan chi triệu.

Đắc can thần chi song chí, đa chiết quế chi anh.

can thần (loan đầu), dỉ 4 chính quái ngôn, như Chấn chi giáp ất, song chí ngôn sơn thượng thủy lý cụ cát, tổng dỉ bất xuất quái vi trng, ký bất xuất quái tức sơn phi 1 sơn thủy phi 1 thủy, dụng hựu hợp nghi, cố đa chiết quế, (thi đậu nhiu) tứ duy quái diệc khả vị can thần. (song chí chỉ song trùng thủy, ta hậu sơn hựu hửu sơn, tắc sơn thủy giai lợi hà sầu bất phát quý. (can thần giả chỉ dần thân tị hợi cục, kiến ất tân đinh quý thủy đồng nguyên nhất khí dã).

Âm Thần mãn địa thành quần,

Hồng Phấn trưng trung không khoái lạc.

Âm Thần 2- 4 – 7- 9- dã, chỉ cung vị, hoặc hướng, hoặc đại môn.

Ha Diệu liên châu tương trực,

Thanh Vân lộ thượng tự tiêu dao.

Ha Diệu tiêm tú chi sơn phong, tức văn bút dã, liên châu 1 x 6, (tối cưng, kỳ tha nhược) 2 x 7, 3 x 8, 4 x 9, 9 x 1, 1 x 4, đẳng thị dã, ngộ Văn Bút chi sa, Ai dĩ cung quí chi tinh cố phát quí.

Phi Loại Tương Tòng, Gia a Dâm Loạn.

Thư Hùng Phối Hợp, Thế Xuất Lương Hin.

ống Nhập Nam Ly, Sậu Cự Thính ưng Tái Hoán.

3 x 9 nhi phùng lưu niên Tốn chí, hửu thính đưng tái hoán, (sửa mới lại sảnh đưng) chi tượng. Tốn vi đống, Chấn vi hỷ tiếu, Ly vi quang minh dã, 3 x 9, hoặc 3 x 4 đồng cung phát tài, 4 x 9 đắc lệnh xuất công danh (hoặc thông minh).

Xa Khu Bắc Khuyết, Thi Văn an Chiếu Tần Lai

1 x 6 nhi phùng niên thượng Khôn (Cấn đồng ) lai, hửu đan chiếu chi ứng, Khôn vi Xa vi Quốc vi thư, Càn vi Quân, Khảm vi 3 tuế (3 năm) thăng quan.

Cẩu Vô Sinh Khí Nhập Môn, Lương Gian Nhất Túc

Nếu không có sinh khí vào cửa, lương thực khó đủ sớm tối.

Hội Hửu Vượng Tinh áo huyệt, Phú Tích Thiên Chung

Hội hợp có vượng tinh tới huyệt, sẽ giàu thóc chứa nghìn chung

Tương Khắc Nhi Hửu Tương Tế Chi Công, Tiên Thiên Chi Kin Khôn ại ịnh.

Khắc nhau lại có trợ nhau là định lớn của Tiên Thiên.

Tương Sinh Nhi Hửu Tương Lăng Chi Hại, Hậu Thiên Kim Mộc Giao Tính.

Sanh nhau lại hiếp nhau, là Hậu Thiên Kim Mộc cùng vứt b .

Mộc Thương Thổ Nhi Kim Vị Trùng Trùng, Tuy Ha Hửu Cứu.

Kin cung có 8 x 4, oài cung có 2 x 3, vậy.

Ha Khắc Kim Nhi Thủy Thần iệp iệp, Tai Bất Năng Xâm.

Thổ Khốn Thủy Nhi Mộc Vượng Vô Phương.

Chấn cung 1 x 2. Tốn cung 1 x 8.

Kim Phạt Mộc Nhi Ha Oanh Hà Kị

Ly cung 3 x 6, hoặc 4 x 7.

Cấn Giao Chấn Tốn Thất Vận Vô Ngại

Văn Kiêm Vũ Phá, Yếu Dụng Bật Tinh

Khảm cung 6 x 9, hoặc 7 x 9.

Tham Nhược Kiêm Cự, Long Tu Chấn Tốn

Chấn cung 1 x 2 , Tốn cung 1 x 2.

Phá Vũ Ngộ Bật, Kiêm Tham Phản Cát .

Ly cung 4 x 6, 4 x 7.

Cát Thần Suy Nhi Kị Thần Vượng, Nải Nhập Thất Nhi Thao Qua

Hung Thần Vượng Nhi Cát Thần Suy, Trực Khai Môn Nhi Ấp ạo

Trùng Trùng Khắc Nhập, Huyn Kiến Tiêu Vong

Vị Vị Sinh Lai, Liên Thiêm Tài Hỷ

Bất khắc Ngã Nhi Ngã Khắc, a Xuất Quan Quả Cô ộc Chi Nhân.

Bất Sinh Ngã Nhi Ngã Sinh, Nải Tuấn Tú Thông Minh Chi Tử

Vi Phụ Sở Khắc, Nam Bất Chiêu Nhi

Bị Mẫu Sở Thương, Nữ bất Thành Từ.

Hậu Nhân Bất Tiếu, Nhân Sinh Phương Chi Phản Bối Vô Tình

Hin Tự Thừa Tông, Duyên Sinh Vị Chi oan Cung Triu Ấp.

Ngã Khắc Bĩ, Nhi Phản Tao Kỳ Nhục, Nhân Tài Bạch dĩ Táng Thân.

Ngã Sinh Chi, Nhi Phản Bị Kỳ Tai, Vi Nạn Sản Nhi Trí Tử.

Phúc a Thủy Nhi Bành Trướng, Túc Dĩ Kim Nhi Bàn San.

Khôn là bụng, thổ suy không chế thủy, nên bệnh chướng, khảm cung 2×1

Chấn là chân, là mộc, gan, máu, bị càn đoài kim khắc, nên què chân, thổ huyết, 3 x 6, 3 x 7, hoặc đối diện kiến trúc hình kim, hoặc đà đao sát.

Kiện nhi động, Thuận nhi động, ộng phi giai triệu

Chỉ nhi tịnh, Thuận nhi tịnh, tịnh diệc bất nghi .

Phú tịnh ào Chu, đoán thị kiên kim ngộ thổ.

Quí tỉ Vương Tạ, tổng duyên kiu mộc phù tang.

Tân tỉ Canh, nhi tân yếu tinh thần

Giáp phụ ất, nhi giáp diệc linh tú.

Quí vi nguyên long, nhâm vi tử khí, xương thịnh các đắc hửu nhân.

Bính lâm văn khúc, inh cận thương quan, nhân tài nhân chi hao phạp

Kiến lộc tồn ôn hoàng tất phát, Ngộ văn khúc đãng tử vô qui.

Lộc tồn 3, văn khúc 4, liêm trinh 5, phá quân 7, không phải thi mà hội nơi đầu hướng, thì sẽ ứng như vậy, nên hướng không thể sơ sót được.

Trực Liêm Trinh Nhi ốn Kiến Ha Tai

Trực vận 5 hoàng, tai trung ương vi thổ, tại ngoại tức liêm trinh ha vậy

Phùng Phá Quân Nhi a Khuy Thân Thể

Ha khắc kim vậy, mấy điu trên đu do bởi giáp tạp,

Tứ Mộ Phi Cát, Dương Thổ Âm Thổ Chi Sở Tài

Bốn Mộ Khố không cát, Dương Thổ Âm Thổ quyn hành

Tứ Sinh Phi Hung, Quái Nội Quái Ngoại Do Ngả Thủ

Bốn Trưng sinh không hung, nội quái ngoại quái do ta chn.

Nhược Tri Ha Phúc Duyên Do, Diệu Tại Thiên Tâm Thác Lược.

Như biết nguyên do ha phúc, cái khéo là tại Thiên Tâm rèn đúc. (Hết)

TRITRI. Dịch xong ngày 24/ 04/ 2010. tại Toronto.

ĐỊA LÝ BIỆN CHÁNH

0


ÄỊA Là BIỆN CHÃNH

(Tưởng Äại Hồng chú) TriTri dịch.

Thanh Nang KinhQuyễn thượng.

Thiên tôn địa ty, dương kỳ âm ngẩu, 1, 6 cá»™ng tông, 2, 7 đồng đạo, 3, 8 vi bằng, 4, 9 vi há»­u, 5, 10 đồng đồ, hạp tịch kỳ ngẩu, ngÅ© triệu sinh thành, lưu hành chung thá»§y, bát thể hồng bố, tá»­ mẩu phân thi thiên địa định vị, sÆ¡n trạch thông khí, lôi phong tương bạc, thá»§y há»a bất tương xạ, trung ngÅ© lập cục, chế lâm tứ phương, bối 1, diện 9, 3, 7 cư bàng, 2, 8, 4, 6, tung hoành ká»· cương, dương dÄ© tướng âm, âm dÄ© hàm dương, dương sinh ư âm, nhu sinh ư cương, âm đức hoằng tế, dương đức thuận xương, thị cố dương bổn âm, âm dục dương, thiên y hình, địa phụ khí, thá»­ chi vị hoá thá»§y.

Thiên nầy lấy khí vô hình làm đầu mối trá»i đất, mà suy nguyên đạo từ sở đến vậy, Vã dương khí thuá»™c trá»i mà thật Ä‘iá»m nÆ¡i trong đất.

Thánh nhân làm dịch để rỠđạo trá»i đất, Ä‘á»u nói âm dương hằng trợ nhau vì cá»™i rể, trá»i cao mà tôn, địa thấp mà ti, nhưng kẻ tôn có đức hạ tế, kẻ ti có nghỉa thượng hành, 1 âm 1 dương, 1 kỳ 1 ngẩu, số ấy tham ngÅ©, cho nên tế 1, hình ấy đối đải, cho nên vảng lai, trá»i đất khuông khuếch do đó mà thành, bốn mùa thay đổi, do đó mà chuyển,

vạn vật hóa dục do đó mà phôi.

Vã đó đạo kỳ ngẫu của âm dương,

tuỳ cá»­ 1 vật không nào chẳng có, trá»i đất vô tâm thánh nhân vô ý, tá»± nhiên lưu lá»™, mà tượng sáng rá» nÆ¡i Hà Äồ, má»›i có 1, 6 cá»™ng tông, 2, 7 đồng đạo, 3, 8 vi bằng, 4, 9 vi há»­u, 5, 10, đồng đồ chi tượng.Thánh nhân do cái tượng mà cầu cái nghỉa, lấy kỳ thuá»™c dương nên có tên gá»i trá»i 1, trá»i 3, trá»i 5, trá»i 7, trá»i 9, lấy ngẩu làm âm mà tên gá»i đất 2, đất 4, đất 6, đất 8, đất 10, Hể có 1, tất có 2, có 3 tất có 4, có 5 tất có 6, có 7 tất có 8, có 9 tất có 10, nên nói số tham ngÅ© là vậy.

Äây 1 đó 2, đây 3 đó 4, đây 5 đó 6, đây 7 đó 8, đây 9 đó 10, ấy gá»i là hình đối đải vậy, thiên số địa số mổi thứ được 5, đó gá»i là số 1 thành, mà vô cùng trăm ngàn vạn ức, do đó mà suy vậy, thiên số địa số mổi số được 5, hợp 2 x 5 thành 10, bởi có 5 tức có 10, cÅ©ng như có 1 tức

có 2, là đạo tự nhiên của âm dương vậy.

Thế nên có 1 cá»§a trá»i tức có

6 cá»§a đất, có đất 2 tức có trá»i 7, có trá»i 3 tức có đất 8, có đất 4 tức có trá»i 9, có trá»i 5 tức có đất 10, đó là số âm dương, để tham ngÅ© mà nhất loạt vậy, Dịch nói, 5 vị tương đắc là ví đó vậy, mà 1, 6, tại dưới tức 2, 7 tất ở trên, 3, 8 bên trái, tức 4, 9 tất tại bên phải, 5 ở giá»­a 10 cÅ©ng ở giá»­a đó là số âm dương đối đải mà qua lại vậy.

Dịch nói, 5 vị

tương đắc mà các có hợp là nói như thế vậy, đã lấy tham 5 mà tá» 1, nên 1 kỳ 1 ngẩu, sáng nhiên không rối, để đối đải qua lại, nên giá»­a kỳ và ngẩu 1 đóng 1 mở, Ä‘iá»m nhiên mà tá»± ứng, đó là sinh thành phải theo vậy.

Thiên 1 sanh thá»§y, mà địa 6 thành chi, Äịa 2 sinh há»a

mà thiên 7 thành chi, thiên 3 sinh má»™c, mà địa 8 thành chi, địa 4 sinh kim mà thiên 9 thành chi, thiên 5 sinh thổ mà địa 10 thành chi, 1 sinh 1 thành, Ä‘á»u là cái khéo cá»§a âm dương giao cấu, 2 khí tương giao, mà 5 hành triệu vậy, giáng ư trên 9 thiên, thăng ư dưới 9 địa, châu lưu 6 cá»i, không ngừng nghỉ, khởi đầu rồi hết, hết rồi lại bắt đầu, không 1 hÆ¡i thở lưu hành, tức không 1 hÆ¡i thở không giao cấu, đương nó không mà thể nó hồn nhiên đã thành, đương nó có mà thể nó trật nhiên có tượng.

Thánh nhân nhơn tượng số của hà đồ, mà lập được

thể quái, vã hà đồ chỉ có 4 tượng, mà trên quẻ thành 8 thể 10 sao vậy, bởi 1 gạch thành hào, hào là giao vậy, khí cá»§a Thái Thá»§y chỉ có 1 dương, tên là Thái Dương, thái dương 1 giao mà thành Thái Âm, gá»i là lưỡng nghi, thái âm thái dương tái giao, mà thành thiếu âm thiếu dương, cùng vá»›i thái âm thái dương thì là 4 tượng, đó là hiện tượng cá»§a hà đồ vậy, là bởi hà đồ mổi phương 2 số, gá»™p lại tức có 8, đó là tượng cá»§a hà đồ ẩn mà hiện vậy.

Cho nên 8 quẻ là do 4 tượng, hào có

3 là do 3 lần giao, kiá»n khôn 2 quẻ là mẹ, 6 quẻ là con, đó là mẹ con 8 quẻ vậy, các quẻ tá»± làm mẹ, 3 hào là con, đó là mẹ con 1 quẻ vậy. Lấy đó phân thi tạo hóa, bố khắp cả vÅ© trụ, rồi đó cá»­ dương kiá»n là trá»i, đối vá»›i âm cá»§a khôn đất, gá»i là thiên địa định vị, thiên phục nÆ¡i trên, địa tải nÆ¡i dưới, đó là âm dương 1 giao, mà thành thiên địa vậy.

Cá»­ dương như cấn là sÆ¡n, đối vá»›i âm Ä‘oài là trạch, gá»i là sÆ¡n trạch thông khí, sÆ¡n tải ở dưới tức trạch thụ nÆ¡i trên, cá»­ dương như chấn là lôi, đối vói âm tốn là phong, gá»i là lôi phong tương bạc, lôi phát từ dưới, tức phong động nÆ¡i trên, cá»­ dương như khảm là thá»§y, đối vá»›i âm ly là há»a, gá»i là thá»§y há»a bất tương xạ, thá»§y há»a bình hành, hình

thưá»ng tương cách, mà tính thưá»ng tương thân vậy.

Äó là 3 âm 3

dương các tá»± giao nhau, mà sinh vạn vật vậy, tiên hiá»n lấy đó mà làm quẻ tiên thiên, phục hy sở định, bổn nÆ¡i long mã phụ đồ mà tác, thá»±c tức hổn độn sÆ¡ phân, là tượng khai tịch cá»§a thiên địa vậy.

Tứ tượng trung hư thành ngÅ© vị, trong ngÅ© đó tức tứ tượng giao vị, chân dương cá»§a kiá»n, chân âm cá»§a khôn, Ä‘á»u không hình mà có thổ hình, mà dưới thổ đó là huỳnh tuyá»n, Ä‘á»u là khôn địa tích âm khí, trên thổ đó là thanh hư, Ä‘á»u là kiá»n địa tích dương khí, mà da thổ đó trải bằng như bàn tay, là chí âm chí dương nÆ¡i kiá»n khôn giao cấu, thá»§y há»a lôi phong sÆ¡n trạch, phàm thiên địa chi các hóa cÆ¡, Ä‘á»u lá»™ nÆ¡i ấy cho nên trung ngÅ© là bát quái thác thể trá»­ tinh, thành hình mà nÆ¡i

hiển dụng vậy.

Nên hà đồ lạc thư, đồng ở trong ngũ mà lập cục vậy,

hà đồ tuy có tứ tượng, mà tiên thiên dương thăng âm giáng, trên dưới sÆ¡ phân chưa thể gá»i tứ phương, từ trung ngÅ© lập cục, rồi sau tứ cục hoạch nhiên, các chánh kỳ phương, có chánh vị cá»§a tứ phương mà tứ duy xen nÆ¡i giá»­a,do đó 8 phương đã thành, gồm trung ngÅ© hoàng cá»±c mà làm 9, phân mà bố như, 1 khởi chánh bắc, 2 cư tây nam, 3 cư chánh đông, 4 cư đông nam, ngÅ© phục cư trung, 6 cư tây bắc, 7 cư hướng tây, 8 cư đông bắc, 9 cư chánh nam, vị chi 9 trù, đó tuy xuất từ lạc thư, mà thật vá»›i số cá»§a hà đồ phù hợp.

Cái lý của thiên địa tự

nhiên phát hiện không khác vậy, bố vị đó gá»i, đái 9 lý 1, tả 3 há»­u 7, 2, 4 vi kiên, 6, 8 vi túc, nÆ¡i cá»§a 8 phương, đúng vá»›i số 8 phương đồng Ä‘á»u. Thánh nhân bèn lấy bát quái lệ theo, mà thứ tá»± gá»i khảm 1 khôn 2 chấn 3 tốn 4 trung 5 kiá»n 6 Ä‘oài 7 cấn 8 ly 9, đó là 4 chánh 4 duy định vị không thay đổi, số tuy khởi 1, mà thật dụng chấn là đầu, bởi sau khi thành vị thiếu dương dụng sá»±, tiên thiên chá»§ thiên mà hậu thiên chá»§ nhật, nguyên tá»­ kế thể thế phụ vi chính vậy.

Dịch nói, đế

xuất hồ chấn, tá» hồ tốn, tương kiến hồ ly, trí dịch hồ khôn, thuyết ngôn hồ Ä‘oài, chiến hồ kiá»n, lao hồ khảm, thành ngôn hồ cấn, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, là, cổ kim thiá»n Ä‘á»i suy di, châu rồi phục thá»§y vậy, chấn tốn ly khôn Ä‘oài càn khảm cấn giả, má»c lặng cá»§a nhật nguyệt, khí cơ cá»§a tứ thá»i, vận hành dá»i chiếu, đảo vòng không bến vậy.

Tiên hiá»n

lấy đó làm quẻ hậu thiên, xưa kia đại vÅ© trị thá»§y, thần qui xuất lạc, văn vương nhân đó mà làm quẻ hậu thiên, há lúc phục hy há»a quái chưa có lạc thư, mà đến lúc đại vÅ© trị thá»§y, chưa có quẻ vị hậu thiên à, trá»™m nghỉ đồ thư, tất ra cùng má»™t lúc, mà tiên thiên hậu thiên quái vị cÅ©ng định trong má»™t ngày, phục hy chỉ có quái hào, rồi văn vương má»›i ghép từ vào.

Hà Äồ Lạc Thư không có 2 số,Tiên Thiên Hậu

thiên không có 2 nghỉa, khác nơi quẻ tiên thiên dùng âm dương đối đải để nói, có đây đó mà không phương góc, quẻ của Hậu thiên lấy âm dương lưu hành mà nói, tức có phương góc ư, đến như mục đích làm quẻ, muốn tại nơi âm dương cùng đắp đổi gốc là 1, hởi đạo của dịch, quí dương tiện âm, tức dương đương là chủ, mà âm đương là phụ, mà rồi nói dương để tướng âm là gì vậy.

Bởi cái xảo của dương

không tại nÆ¡i dương, mà tại nÆ¡i âm, cái dương trong âm má»›i là chân dương, cố âm có cảm thì dương lại ứng, tá»±a hồ âm phản làm quân, mà dương phản vi tướng, đó là kinh nói tôn chỉ cá»§a thần minh vậy, nhưng dương sở dỉ đến ứng vá»›i âm đó là trong âm bổn tá»± có vậy, dĩ loại mà theo nên đến mà ứng, không phải là âm chứa dương sao, âm chứa dương tức năng sinh dương, nhất thiết khí phát sinh, Ä‘á»u do dương nắm giá»­, tức Ä‘á»u do âm mà ra tất cả, cương nhu tức âm dương, âm dương do khí mà nói, cương nhu do chất mà nói.

Dịch nói Càn

cương khôn nhu, lại nói cương nhu xoa nhau, bát quái Ä‘u đưa nhau, trong bát quái Ä‘á»u có âm dương, tức Ä‘á»u có cương nhu, bằng lấy dương làm cương, lấy nhu làm âm, tức nên là cương do nhu sinh vậy.

Mà rồi nói nhu sinh nơi cương là gì vậy, khí là vô hình, dương cương mà âm nhu, chất đã có hình âm cương mà dương nhu, nơi có hình của cương chất, lại sinh vô hình của nhu khí, chất sinh khí, khí hoàn sinh chất, nên nói nhu sinh nơi cương vậy, phàm kỳ sở dĩ năng tương trợ năng vi bao hàm sinh sinh bất tức, như vậy là tức lấy âm làm dương.

Bởi tá»± có kỳ đức, duy đức cá»§a âm, năng hoằng đại ư dương, để tế dương mà thí, nên đức cá»§a dương, năng thân thuận ư âm, để xương cái hóa cá»§a âm, đó là cái xảo cá»§a âm dương, để khí mục cảm thấy nÆ¡i hà đồ lạc thư, quái tượng cá»§a tiên hậu thiên là vậy, do đó tức có thể biết đạo cá»§a trá»i đất vậy, đạo cá»§a trá»i đất, dương thưá»ng bổn nÆ¡i âm mà âm thưá»ng dục nÆ¡i dương, nên trá»i không khuếch nhiên không hư mà vì trá»i vậy, cái khí thưá»ng y nÆ¡i há»­u hình, mà không lúc nào không hạ tế, đất không khối nhiên bất động mà là đất vậy, cái hình thưá»ng phụ nÆ¡i nguyên khí, mà vô thá»i không thượng thăng, nhưng mà khí cá»§a trá»i, thưá»ng tại lòng đất, mà khí cá»§a đất, Ä‘á»u là khí cá»§a trá»i, âm dương tuy 2 khí, mà chỉ 1 khí à, bởi sinh trá»i đất là khí đó, mà sở

sinh vạn vật cÅ©ng là khí đó, nên gá»i hóa thá»§y vậy.

(hết quyển thượng)

THANH NANG KINH

Quyển Trung (Hóa Cơ)

Kinh Viết: Thiên hữu ngÅ© tinh, Äịa hữu ngÅ© hành, thiên phân tinh tú, địa liệt sÆ¡n xuyên, khí hành ư địa, hình lệ ư thiên, nhân hình sát khí dÄ© lập nhân ká»·, Tá»­ Vi tây cá»±c, Thái Ất chi ngá»±, quân lâm tứ chánh, nam diện nhi trị, Thiên Thị đông cung, Thiếu Vi tây vá»±c, Thái Vi nam viên, bàng chiếu tứ cục, tứ thất vi kinh, ngÅ© đức vi VÄ©, vận cán khôn dá»±, thùy quang kiá»n ká»·, thất chánh xu cÆ¡ lưu thông chung thá»§y, địa đức thượng tái, thiên quang hạ lâm, âm dụng dương triá»u, dương dụng âm ứng, Âm Dương tương kiến phúc lưu thông chung thá»§y, địa đức thượng tái, thiên quang hạ lâm, âm sở lâm, địa chi sở cảm, hình chỉ khí súc, vạn vật hóa sinh, khí cảm nhi ứng, quỉ phúc cập nhân, thị cố thiên há»­u tượng, địa há»§u hình, thượng hạ tương tu, nhi thành nhất thể, thá»­ chi vị Hóa CÆ¡.

Tiên nầy nói hình cá»§a tượng, là hóa cÆ¡ cá»§a trá»i đất, mà chỉ thị khí theo chịu vậy, văn trên đã rá» hà đồ lạc thư, và lý cá»§a tiên thiên hậu thiên bát quái, Thánh nhân làm Dịch chỉ tận nÆ¡i đây, thiên địa âm dương chi đạo cÅ©ng tận nÆ¡i đây, nhưng thánh nhân không tá»± làm dịch, cái tứ tượng bát quái, Ä‘á»u ngưỡng pháp nÆ¡i trá»i, cho nên thiên nầy chuyên chỉ thiên tượng mà nói.

Ôi, dịch cá»§a bát quái, lấy tượng ngÅ© hành nÆ¡i đất, thật nhân trá»i có ngÅ© diệu, ngÅ© diệu ngưng Ä‘á»ng ở trên, mà ngÅ© hành lưu khí nÆ¡i dưới, tinh tú cá»§a trá»i, ngÅ© diệu làm phân quang liệt tượng vậy, núi sông cá»§a đất, ngÅ© hành làm thành thể kết soạn vậy, nên núi sông không liệt tú mà thưá»ng đủ hình liệt tú, xem hình trình ra cá»§a nó, tức đã biết khí lẫm cá»§a nó.

Ôi, có hình đó lẫm khí đó, vật hóa tá»± nhiên, ban sÆ¡ chưa cập đến nhân sá»±, mà thánh nhân ngá»­a xem cúi xét, nhân ká»· từ đó lập vậy, Má»™c là tuế tinh, phương vị tại đông, kỳ lệnh là xuân, kỳ đức là lá»…, Há»a vi Huỳnh hoặc kỳ vị tại nam, kỳ lệnh là hạ, kỳ đức là nhân, Thổ vi trấn tinh, kỳ phương vi trung ương, kỳ lệnh vi quí hạ, kỳ đức vi tín, Kim vi Thái Bạch, kỳ phương vi tây, kỳ lệnh vi thu, kỳ đức vi nghiả, Thá»§y vi Thần Tinh, kỳ phương vi bắc, kỳ lệnh vi đông, kỳ đức vi trí, hồng ngá»± thế tể vật, đạo cá»§a 1 trá»i đất vậy, bởi nói thiên thể, tức có thất chính để tư nguyên hóa, nhật nguyệt ngÅ© tinh đó vậy, có tứ viên để trấn bốn phương, Tá»­ Vi, Thiên Thị, Thái Vi, Thiếu Vi đó vậy.

Có 28 tú để phân bố chu thiên, thương long 7 tú giác cang đê phòng tâm vỹ cÆ¡, chu Ä‘iểu 7 tú tỉnh quỉ liểu tinh trương dá»±c chẩn, bạch hổ 7 tú khuê lâu vị mão tất chá»§y sâm, huyá»n vÅ© 7 tú đẩu ngưu ná»­ hư nguy thất bích đó vậy, 4 viên tức 4 tượng, 7 chính tức âm dương ngÅ© tú chi căn bản, cái then do nÆ¡i bắc đẩu, phân làm 4 phương mà là 28 tú, nên phò hư mão tinh ứng nhật, tâm nguy tất trương ứng nguyệt, giác đẩu khuê tỉnh ứng tuế tinh, vỹ thất chá»§y dá»±c ứng doanh cảm, cang ngưu lâu quỉ ứng thái bạch, cÆ¡ bích sâm chẩn ứng thần tinh, đê ná»­ vị liểu ứng trấn tinh, lâm chế phương ấy các 1, 7 chính vậy.

Hổn thiên đủ vòng tuy nói 4 phương, mà đã có bát quái 24 hào tượng rồi, không kinh thì không thể lập cục, không vÄ© thì không thể mà thay đổi, 1 kinh 1 vÄ© chân âm chân dương giao đạo vậy. Giao đạo duy lạc mà là thể cá»§a hậu thiên, vòng chu mà cố ư ngoại, thể cá»§a địa, kết thúc mà an nÆ¡i trong, đó là lưu hành cá»§a nguyên khí, tá»± nhiên mà thành khí, kỳ thá»§y vô thá»§y, kỳ chung vô chung, bao la lục hợp, nhập nÆ¡i vô gian, tuy danh âm dương, 1 khí mà thôi, ngưá»i có thể được 1 khí đó tức kẻ sinh thì có thể được kỳ sinh, mà kẻ tá»­ cÅ©ng đặng kỳ tá»­, cái đạo địa lý gồm 1 mối cá»§a nhân ká»·, mối đó đả lập, tức các chính y thứ mà ứng vậy.

Nên thánh nhân trá»ng kỳ sá»±, dùng tại đất mà tất cầu mối nÆ¡i trá»i, bởi bổn khí đó tá»± đến vậy, nhưng khí không thấy được mà hình thấy được, cái khí không thấy được tức gởi nÆ¡i hình có thể thấy được, hình là khí sở thành, mà tức là đội khí, khí phát ở trá»i, mà kẻ đội là đất, khí bổn là dương mà kẻ đội là âm, nên có âm tức có dương địa đắc kỳ sở mà thiên khí qui vậy, thiên địa vô thá»i bất giao há»™i, âm dương vô thá»i bất tương kiến, tương kiến mà được chánh xung hòa, tức là cá»­a phúc đức, tương kiến mà không được chánh xung hòa, tức là trái nhau mà là há»a căn, há»a phúc khác lối chỉ tranh 1 khoản, thật đáng sợ vậy

Vả cÅ©ng biết tinh tú đẹp nÆ¡i trá»i, núi sông mà có thể liệt nÆ¡i đất vậy, khí cá»§a trá»i, lúc nào chẳng có, mà mặt nhật được dương tinh cá»§a trá»i, mà hằng là nhật,mặt trăng được âm tinh cá»§a trá»i, mà hằng là trăng, ngÅ© diệu được ngÅ© tinh khí cá»§a trá»i, mà hằng là vỹ, chí ư 4 viên 28 tú,chúng tinh hoàn liệt lại được tinh cá»§a nhật nguyệt ngÅ© tinh, mà hằng là kinh, đó tức là tại trá»i mà có hình vậy, lại có cái khí đội trá»i, khí cá»§a đất không lúc nào chẳng có, sÆ¡n được khí cá»§a nhật nguyệt ngÅ© tinh mà hằng là sÆ¡n, xuyên đắc khí cá»§a nhật nguyệt ngÅ© tinh mà hang vi xuyên đó tức là có hình tại địa để đội khí cá»§a địa vậy.

Liệt tú được khí cá»§a trá»i mà sinh nÆ¡i trá»i, liệt tú vá»›i trá»i má»™t thể vậy, sÆ¡n xuyên đắc khí cá»§a địa mà sinh nÆ¡i địa, sÆ¡n xuyên vá»›i địa má»™t thể vậy, vạn vật sinh nÆ¡i trá»i đất cái nào chẳng vậy,Vả vạn vật không thể tá»± sinh mà mượn khí cá»§a trá»i đất để sinh, nhưng thiên địa không có ý sinh vạn vật, mà vạn vật các tá»± có đất đất vậy, vừa vá»›i khí cá»§a trá»i đất gặp nhau trong nÆ¡i bí ẩn hoảng hốt, mà có được thấm nhuần lại có đuợc lo liệu vậy.

Vả mà có nụ thai, thì khiến khí thiên địa ngưng mà không Ä‘i, tích mà lÅ©y rồi vá»›i 1 vật bá»™t nhiên sanh ra vậy, đạo cá»§a địa lý, tức khiến ta muốn lấy hình đủ để nạp khí, mà khí không nÆ¡i ta, Ä‘i tức hình vá»›i khí giao mà thành 1, tức khiến nÆ¡i đất ta chiếm đủ để nối trá»i, mà trá»i không cách ta, tức đất vá»›i trá»i giao mà thành 1, bởi hình khí thiên địa đả hợp thành 1, tức hài cốt đã táng cÅ©ng vá»›i khí cá»§a thiên địa là 1, mà tá»­ phách sinh nhân khí mạch đưa đẩy thì cÅ©ng là 1.

Phúc ứng mà đến bằng trương cÆ¡ thẩm quát, đó là hóa cÆ¡ vậy, nếu không chứa thì không cá»­a, ngưng cÅ©ng không cách, tuy liệt tú đầy trá»i chiếu rạng trung thiên, mà ta không mong chiếu đến, tuy đại địa dương hòa, tràn lưu 8 hướng mà ta không được thấm ướt, trá»i là khuông khuếch, đất là ruá»™ng lúa, xương thì mau mục, con cháu thì bám sinh, tôi chưa từng thấy phước vậy, không thể bất thận trá»ng không thể bất thận trong vậy. (còn tiếp quyá»…n hạ)

THANH NANG KINH

QUYỄN HẠ (HÓA THẰNH)

Vô cực nhi Thái cực dã, lý ngụ ư khí, khí hữu ư địa, nhật nnguyệt tinh tú, cương khí thượng đằng, sơn xuyên thảo mộc, nhu khí hạ ngưng, tư dương dĩ xương, dụng âm dĩ thành, dương đức hửu tượng, âm đức hữu vị, địa hửu tứ thế, khí tòng bát phương, ngoại khí hành hình, nội khí chỉ sinh, thừa phong tắc tán, giới thủy tắc chỉ, thị cố thuận ngũ triệu, dụng bát quái bài lục giáp, bố bát môn, thôi ngũ vận định lực khí, bài lục giáp bố bát môn, thôi ngũ vận định lục khí, minh địa đức, lập nhân đạo, nhân biến hóa, nguyên chung thủy, thử vị chi hoá thành.

Thiên nầy nói lên hình khí tuy khác, mà lý lẽ thì má»™t, cho ngưá»i thấy rằng do hình cầu khí, là chuẩn má»±c nhập dụng cá»§a địa lý, dịch rằng dịch có thái cá»±c mà sinh lưỡng nghi, Thái Cá»±c là, nói tượng vua trước tiên, trước thiên địa sinh, năng sinh thiên địa là tổ căn cá»§a vạn tha, vốn không vật không tượng không số, không phương gốc, không nào chẳng có, nói Thái cá»±c, mà không Thái cá»±c có biết, hậu hiá»n lập thuyết, lo há»c giả 1 Thái cá»±c vì có vật, cố nói lên để rá» mà rằng, vô cá»±c là Thái cá»±c vậy.

Lá»›n là trá»i đất, nhá» là vạn vật, vả chăng là các có Thái Cá»±c, vật vật 1 thái cá»±c, các 1 vật toàn đủ cái lý cá»§a 1 thiên địa, ngưá»i biết thái cá»±c vật vật gồm đủ, tức đạo cá»§a địa lý, nghỉ đến quá ná»­a vậy.

Lý ngộ nơi khí, khí 1 thái cực vậy, khí gom nơi hình, hình 1 thái cực vậy, dĩ chí trong có thái cực, nên có thể đóng xuống, trợ dương tốt đẹp, trợ cho 1 thái cực vậy, dùng âm để thành, dùng cho 1 thái cực vậy.

Thái cá»±c mà để hiển lá»™ thì gá»i là tượng, mà đã tuyên bố thì gá»i là vị, đất không 4 thế, 1 thái cá»±c thừa vậy, mà mệnh làm 4 thế khí vô 8 phương, 1 thái cá»±c ngá»± chi, mà mệnh làm 8 phương thế vá»›i phương vậy, tượng đó khí đó, mà mệnh làm thế làm phương đó, cái cá»±c mà cục đâu có định, tức thế vá»›i phương, cÅ©ng có định đâu trong 4 thế các tá»± có tượng, tức trong 8 phương các tá»± có khí, nhưng khí cá»§a các phương đó Ä‘á»u là khí lưu hành, do phương thành hình, chỉ gá»i ngoại khí, nếu buông thả lưu hành mà không ngưng tụ, tức từ 8 phương đến rồi cÅ©ng từ 8 phương mà Ä‘i, thiên sÆ¡n vạn thá»§y chỉ để tai mắt xem chÆ¡i, như truyá»n xá như quá khách, cÅ©ng không đủ để tuấn phát linh cÆ¡, vun thêm nguyên hóa, tất có vì ná»™i khí mà vậy.

Cái gá»i ná»™i khí không phải có từ trong tức khí lưu hành từ ngoại lai, ngưng tại đó, có đó 1 ngừng, thì khí hành hình cá»§a 8 phương, Ä‘á»u bị thu hút há»p tụ nÆ¡i đó, là 1 ngưng tất cả Ä‘á»u ngừng, do đó mà nói Thái Cá»±c, là chân thái cá»±c vậy, không đâu không ngưng tức dương không nÆ¡i chẳng trợ, âm không nÆ¡i vô dụng, mà sinh sinh bất dừng đạo tại nÆ¡i trong.

Thái cá»±c sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh 4 tượng, 4 tượng sinh bát quái, vạn sá»± vạn vật, Ä‘á»u nụ thai nÆ¡i đó, thiên trước nói hình chỉ khí súc vạn vật hóa sinh là gồm nói đó vậy, nhưng chỉ nói ngưng, mà không đỠrá» nghÄ©a tại sao ngưng, e thẩm khí cá»§a thế gian, man nhiên mà rút tay, nên cá»­ khí lá»›n nhất lưu hành nÆ¡i khoảng không, gá»i là phong, gá»i là thá»§y, vã phong có khí mà vô hình lẫm nÆ¡i dương vậy, thá»§y có hình mà kiêm có khí, 2 đó Ä‘á»u là vật hành khí, cái khí dương theo gió mà Ä‘i, cái khí âm theo nước mà hành, mà dương khí hành trở lại tán dương, bởi trong dương có âm vậy, hành âm khí thì trở lại ngưng dương, bởi trong âm có dương vậy.

Äất rá»™ng thế gian ở đâu mà chẳng có gió, ở đâu mà chẳng có nước, gió vốn không thể tán nước, nên hà hÆ¡i ra cho tán, bệnh thừa nÆ¡i trong, thá»§y vốn không thể ngưng khí, nên hút vào cho ngưng, xảo tại nÆ¡i giá»›i, giá mà rỠđược nghỉa thừa vá»›i giá»›i, xét khí mà suy pháp thái cá»±c, thì hiểu vậy, văn trên phản phúc suy tưá»ng, Ä‘á»u là nói phiếm cái lý cá»§a hình khí, chí như chỉ thật cái dụng cá»§a địa lý, như vậy tổng quát đầy đủ rồi.

Thuận 5 triệu, lấy 5 tinh chánh biến mà thẩm tượng, dùng bát quái lấy 8 phương suy vượng ma thẩm vị, bài 6 giáp lấy 6 giáp ká»· niên mà thẩm vận, bố 8 môn, lấy 8 phong khai hạp mà thẩm khí, khuông khổ cá»§a địa lý Ä‘á»u tận nÆ¡i đây, suy 5 vận, lấy 5 ká»· doanh hư mà thẩm tuế, định 6 khí, lấy 6 khí lui thay mà thẩm lệnh, cẩn tuế thá»i để phò then chốt cá»§a Ä‘iạ lý, tận nÆ¡i đó vậy.

Như vậy thái cá»±c không mất cái chánh, mà địa đức khả minh, tuy nhiên cái minh cá»§a thánh nhân là địa đức vậy, không đồ được đức mà thôi, bởi địa có 5 hành, đắc kỳ thuận tức nhân sinh vậy, 5 đức bị kỳ toàn, mà 5 đức thưá»ng như kỳ tính, thánh hiá»n hào kiệt, tiếp nối mà ra, mà lá»… nhạc chính hình, không có chẳng theo pháp, không phải nhân đạo từ đó mà lập sao, dù vậy cÅ©ng là biến hóa cá»§a âm dương, cái xảo tá»± nhiên, tuy có kẻ trí, không thể lấy ý riêng mà làm xằng, cÅ©ng vẩn biết đó là như vậy, nên thôi Ä‘i, vả bốc địa táng ngưá»i thân, là lo đầy đủ việc tang, mà con cháu thế trạch Ä‘á»u ra trong đó, tức nhân đạo đã hết, mà là nhân đạo đã bắt đầu, vả chăng đạo lý là vậy, thánh nhân khai vật thành vụ, không thứ nào lá»›n hÆ¡n được, nên gá»i hóa thành đó vậy. (hết)

ST

BÁT SÁT – HOÀNG TUYỀN (Phần 2)

2

III.                 HOÀNG TUYỀN

Lập hướng, kỵ thủy lộ, phạm Hoàng Tuyền

THƠ CỔ:                     1/ Canh Đinh Khôn, thường thị Hoàng Tuyền

2/ Ất Bính tu phòng, Tốn thủy tiêu

3/ Giáp, Quý hướng trung ưu kiến Cấn

4/ Tân Nhâm thủy lộ phụ dương Kiền

Theo nghĩa đen của mỗi chữ trong mỗi câu:

1/ Phương Nam là Đinh, thì trên phương Khôn là Hoàng Tuyền.

2/ Phương Ất là Bính, thì nên phòng nước phương Tốn trước hết.

3/ Trong hướng Giáp và hướng Quý thì lo thấp ở phương Cấn

4/ Phương Tân và Nhâm , thì sợ đường nước ở ngay phương Càn

1.      NGHĨA LÀ:

Giáp, Canh, Nhâm, Bính là tứ Dương can (4 thiên can thuộc Dương), Ất, Tân, Đinh, Quý là tứ can Âm (4 thiên can thuộc Âm), ở về 4 phương chính, mỗi phương có 2 can: một âm, một dương.

Càn, Khôn, Cấn, Tốn gọi là tứ Duy, cũng là hàng thiên can ở bốn phương ngung (bốn hướng góc), cộng là tám phương (bát quái)

+ Giáp, Canh, Nhâm, Bính là 4 dương can hợp với 4 địa chi: Tý, Ngọ, Mão, Dậu, 4 phương chính, theo về lý khí, của vòng trường sinh thì 4 phương này vừa là 4 phương Vượng, vừa là bốn phương Tử của 4 đại cục.

+ Ất, Tân, Đinh, Quý là 4 âm can hợp với 4 địa chi: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, 4 phương bàng, theo về lý khí, của vòng trường sinh thì 4 phương này vừa là 4 phương Dưỡng, vừa là bốn phương Mộ của 4 đại cục.

+ Càn, Khôn, Cấn, Tốn là 4 Thiên can hợp với 4 địa chi: Dần, Thân, Tị, Hợi ở 4 phương ngung (tứ duy), theo về lý khí, của vòng trường sinh thì 4 phương này vừa là 4 phương Sinh, vừa là bốn phương Tuyệt của 4 đại cục khác nhau.

Ví dụ: Câu: Canh, Đinh, Khôn, thường thị Hoàng Tuyền

Như là lập hướng Canh, là hướng Vượng của Kim cục thì Khôn là Lâm Quan, thì thủy ở Khôn phải chảy lại trước huyệt. Nếu chảy đi là thủy phá Lâm Quan, thì bị Hoàng Tuyền.

Như lập hướng Đinh, là Dưỡng hướng thủy cục, thì Khôn là Trường sinh, Thủy ở phương Khôn cũng phải chảy lại trước huyệt, nếu chảy đi là thủy phá Trường sinh phương, thì bị Hoàng Tuyền.

Nhưng trái lại cũng lập hướng Đinh, nhưng ở Mộc cục, thì Đinh lại đổi là Mộ, Khôn đổi lại Tuyệt, thủy lưu nhập thì bị Hoàng Tuyền.

Nếu không biết phép tiêu nạp thủy ở trong 4 phương: Càn, Khôn, Cấn, Tốn này thì phạm Hoàng Tuyền. Vì vậy bảo là Tứ lộ Hoàng Tuyền, Hoàng Tuyền là suối vàng, là nơi vô khí ( tử khí): Nói một cách khác: Dương thế có đường đi của người dương thế. Dưới âm cũng có đường đi của người âm: (Hoàng là Vang, Tuyền là suối) Hoàng Tuyền xuất hiện ở Thiên Can và tứ Duy, không xuất hiện ở Địa chi.

Nói tóm lại:

–        Mặt tiền nhà là Cấn thì Giáp, Quý là Hoàng Tuyền

–        Mặt tiền rơi vào Giáp, Quý thì Cấn là Hoàng Tuyền

–        Mặt tiền nhà là Tốn thì Ất, Bính là Hoàng Tuyền

–        Mặt tiền rơi vào Ất, Bính thì Tốn là Hoàng Tuyền

–        Mặt tiền nhà là Khôn thì Đinh, Canh là Hoàng Tuyền

–        Mặt tiền rơi vào Đinh, Canh thì Khôn là Hoàng Tuyền

–        Mặt tiền nhà là Càn thì Tân, Nhâm là Hoàng Tuyền

–        Mặt tiền rơi vào Tân, Nhâm thì Càn là Hoàng Tuyền

2.      TÁC HẠI CỦA HOÀNG TUYỀN

–        Nhà phạm Hoàng Tuyền gây cho người mắc các bệnh ác tính như: ung thư, u cục ác tính, rối loại các tuyến nội tiết, rối loạn chức năng các tạng phủ, gây cho người có bệnh cảm giác như giả vờ, lúc có thuốc bệnh cũng không đỡ, không có thuốc bệnh lại khỏi.

–        Gây cho người thích kiện tụng, thích đấu đá, tù đầy, chết chóc, nóng nảy, điên rồ, hoặc bị những họa không tự mình gây ra (họa vô đơn chí, không biết nguyên nhân) Hoặc mắc bệnh, Đông Tây y không phát hiện ra.

3.      NGUYÊN LÝ LẬP BÁT QUÁI TRẤN HOÀNG TUYỀN.

HOÀNG TUYỀN LÀ ĐƯỜNG ĐI CỦA NGƯỜI ÂM:

Là điểm giữa mặt tiền nha, cửa chính, cửa phụ, cửa sổ và cổng đối diện phải, là đường đi của ma quỷ, Phong thủy dùng bát quái SINH KHÍ TRẤN.

–        Nếu điểm giữa mặt tiền nhà là Càn:  thì Tân, Nhâm rơi vào cổng, cửa chính, phụ, cửa sổ là Hoàng Tuyền thì:

1/ Với Tân: Lấy mã số địa của Đoài đặt trung cung Lạc Thư, phi theo hệ Đoài làm ruột ma phương.

2/ Các sao của 8 cung hệ Đoài phi ra kết hợp với các sao vòng ngoài từng cặp, từng cặp thành sinh khí ra tổng ma phương sinh khí là ma phương phát sinh khí trấn Hoàng tuyền Ngũ quỷ

3/ Ma phương làm xong nạp thần (thông tin) và treo ma phương có số thay số 5 vào trung cung lên trên. Ma phương treo tại vị trí phạm Hoàng Tuyền, đầu ma phương phải có dịch tự quẻ để tăng sức mạnh trấn.

Ta lần lượt đi hết 12 vị trí có thể xảy ra Hoàng Tuyền:

CUNG CÀN : Mặt tiền nhà là Càn:

1/ Vị trí Tân là Hoàng Tuyền, Tân thuộc Đoài, lấy mã số địa của Đoài là 7 đặt và trung cung Lạc Thư phi theo chiều quỹ đạo của Đoài:

17.jpg

Vị trí Tân bị Ngũ Quỷ, ma phương này treo ở vị trí bị Ngũ Quỷ – Hoàng Tuyền

18.jpg

Ma phương phát sinh khí trấn Ngũ Quỷ.

2/ Vị trí Nhâm là Hoàng Tuyền, Nhâm thuộc Khảm, lấy mã số địa của Khảm đặt trung cung Lạc Thư phi theo quỹ đạo của Khảm làm ruột ma phương phát Sinh Khí

19.jpg

Ma phương treo tại Nhâm.

20.jpg

Ma phương phát sinh khí trấn Hoàng Tuyền.

3/ Nếu Tân – Nhâm là mặt tiền, vị trí Càn là Hoàng Tuyền, mã số địa của Càn là (6)

Đặt 6 vào trung cung phi theo quỹ đạo Càn

21.jpg

Ma phương này treo ở Càn

22.jpg

Ma phương phát Sinh Khí

CUNG CẤN:  Mặt tiền nhà là cấn

1/ Vị trí Quý là Hoàng Tuyền.

Quý thuộc Khảm, lấy mã số địa của Khảm đặt vào trung cung Lạc Thư phi theo hệ Khảm (1)

23.jpg

Ma phương treo ở Quý

24.jpg

Ma phương phát Sinh Khí

2/ Mặt tiền nhà là Cấn: Vị trí Giáp là Hoàng Tuyền.

Giáp thuộc Chấn, lấy mã số Địa của Chấn là 3, đặt vào trung cung Lạc Thư, phi theo quỹ đạo Chấn:

25.jpg

Ma phương này treo ở Giáp

26.jpg

3/ Quí – Giáp là mặt tiền nhà thì Cấn là Hoàng Tuyền.

Mã số địa của Cấn là 8, đặt 8 vào trung cung Lạc Thư phi theo chiều quỹ đọa của Cấn, các số của 8 cung phi ra làm ruột ma phương Sinh Khí, kết hợp với cá số vòng ngoài từng cặp, từng cặp thành ma phương Sinh Khí.

27.jpg

Ma phương phát Sinh Khí này treo ở Cấn

28.jpg

CUNG TỐN:  Mặt tiền nhà là Tốn: Vị trí Ất – Bính là Hoàng Tuyền.

1/ Ất thuộc Chấn; Chấn gồm Giáp – Ất, ma phương hoàn toàn giống ở Giáp, nhưng mặt tiền nhà Tốn thì treo ma phương ở Ất.

2/ Vị trí Bính thuộc Ly, mã số địa của Ly là (9), đặt vào trung cung phi theo quỹ đạo hệ Ly:

29.jpg

Ma phương Sinh Khí này treo ở Bính

30.jpg

3/ Ất – Bính là mặt tiền nhà thì Tốn là Hoàng Tuyền

Mã số địa của Tốn là 4, đặt 4 vào trung cung Lạc Thư phi theo hệ Tốn

31.jpg

Ma phương này treo ở Tốn

32.jpg

Ma phương phát Sinh Khí trấn Hoàng Tuyền ở Tốn

CUNG KHÔN:  Mặt tiền nhà là Khôn: Vị trí Đinh – Canh là Hoàng Tuyền.

1/ Đinh thuộc Ly, Bính thuộc Ly. Ma phương của Đinh giống hoàn toàn như ma phương của Bính. Nhưng mặt tiền nhà là Khôn, thì ma    phương này phải treo ở Đinh nơi bị Hoàng Tuyền

2/ Canh thuộc Đoài, Tân cũng thuộc Đoài. Ma phương của Canh giống hoàn toàn ma phương của Tân. Nhưng mặt tiền nhà là Khôn , thì ma phương này phải treo ở Canh nơi bị Hoàng Tuyền.

3/  Đinh – Canh là mặt tiền thì Khôn là Hoàng Tuyền.

Mã số địa của Khôn là 2, đặt 2 vào trung cung phi theo quỹ đạo của Khôn

33.jpg

Ma phương phát Sinh Khí trấn Hoàng Tuyền ở Khôn

34.jpg

(HẾT)

Dẫn theo Lyhocdongphuong

BÁT SÁT – HOÀNG TUYỀN – phần 1

0

BÁT SÁT – HOÀNG TUYỀN

I.  BÁT SÁT – HUNG KỴ: Lập hướng phải kỵ 8 phương sát khí:

CA QUYẾT:

1/ Khảm Long, Khôn Thỏ (mão), Chấn sơn Hầu

2/ Tốn Kê, Kin Mã, Đoài Xà đẩu

3/ Cấn Hổ, Ly Trư, Vi sát liệu

4/ Phạm chi mộ, trạch nhất t hư

NGHĨA LÀ:

1/ Phương Khảm thì kỵ khắc với Phương Thìn (Thìn thì ứng tinh với con Rồng, nên gi bí danh là Long). Phương Khôn kỵ khắc với phương Mão (Mão thì ứng linh là con Th). Phương Chấn kỵ khắc với phương Thân (Thân thì ứng tinh với con Khỉ nên gi bí danh là Hầu)

2/ Phương Tốn kỵ khắc với phương Dậu (Dậu thì ứng tinh là con Gà nên gi bí danh là Kê). Phương Càn thì kỵ khắc với phương Ng (Ng thì ứng tin với con Ngựa nên gi bí danh là Mã). Phương oài thì kỵ khắc với phương Tị (Tị là ứng với tinh con Rắn, nên bí danh gi là xà đẩu)

3/ Phương Cấn kỵ khắc với phương Dần (Dần thì ứng tinh là con Cp nên gi bí danh là Hổ). Phương Ly thì kỵ khắc với phương Hợi (Hợi thì ứng tin với con Lợn nên gi bí danh là Trư). Tám phương n khắc với tám phương kia nên là sát diệu (sao sát).

4/ Phạm vào đấy thì mộ phần hay nhà ở đâu cũng hỏng.

VÍ DỤ:

1/ Khảm Long: Mạch từ phương Tý nhập huyệt thì không nên lập hướng Thìn; Hoặc mạch ở phương Thìn nhập huyệt thì không nên lập hướng Tý. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị diệt vong; bởi vì Tý thuộc Thủy, Thìn thuộc Thổ, Thổ khắc Thủy nên bị sát.

2/ Khôn Long: Mạch từ phương Khôn nhập huyệt thì không nên lập hướng Mão; Hoặc mạch ở phương Mão nhập huyệt thì không nên lập hướng Khôn. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị ha vong; bởi vì phương Khôn thuộc Thổ, phương Mão thuộc Mộc, Mộc khắc Thổ nên bị sát.

3/ Chấn Long: Mạch từ phương Chấn nhập huyệt thì không nên lập hướng Thân; Hoặc mạch ở phương Thân nhập huyệt thì không nên lập hướng Chấn. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị ha vong; bởi vì phương Chấn thuộc Mộc, phương Thân thuộc Kim, Kim khắc Mộc nên bị sát

4/ Tốn Long: Mạch từ phương Tốn nhập huyệt thì không nên lập hướng Dậu; Hoặc mạch ở phương Dậu nhập huyệt thì không nên lập hướng Tốn. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị ha vong; bởi vì phương Tốn thuộc Mộc, phương Dậu thuộc Kim, Kim khắc Mộc nên bị sát.

5/ Càn Long: Mạch từ phương Càn nhập huyệt thì không nên lập hướng Ng; Hoặc mạch ở phương Ng nhập huyệt thì không nên lập hướng Càn. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị ha vong; bởi vì phương Càn  thuộc Kim, phương Ng thuộc Ha, Ha khắc Kim nên bị sát.

6/ oài Long: Mạch từ phương oài nhập huyệt thì không nên lập hướng Tị; Hoặc mạch ở phương Tị nhập huyệt thì không nên lập hướng oài. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị ha vong; bởi vì phương oài thuộc Kim, phương Tị thuộc Ha, Ha khắc Kim nên bị sát.

7/ Cấn Long: Mạch từ phương Cấn nhập huyệt thì không nên lập hướng Dần; Hoặc mạch ở phương Dần nhập huyệt thì không nên lập hướng Cấn. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị ha vong; bởi vì phương Cấn thuộc Thổ, phương Dần thuộc Mộc, Mộc khắc Thổ nên bị sát.

8/ Ly Long: Mạch từ phương Ly nhập huyệt thì không nên lập hướng Hợi; Hoặc mạch ở phương Hợi nhập huyệt thì không nên lập hướng Ly. Nếu lập hướng vào đấy là phạm sát, thì bị ha vong; bởi vì phương Ly thuộc Ha, phương Hợi thuộc Thủy, Thủy khắc Ha nên bị sát.

CHÚ : Long mạch nhập huyệt chính là Long nhập thủ. Ở đồng bằng, nhìn long nhập thủ có chỗ khác với min núi. Nếu thấy long sơn khởi cao hơn hai bên một chút, thắt lại nh hẹp, thì cũng lấy 24 phương định mạch khí, như min núi ở đồi cao. Nếu long mạch bình thản (thấp và phẳng rông), không nhận đích được long tính, thì lấy phương nào ở gần nước hơn mà định cục, lập hướng, như là phương Nam gần nước thì lấy Khảm cục Long lập hướng Nam…vv

Cục cũng kỵ khắc như phương, tức là Khảm cục không nên lập Thìn hướng, Khôn cục không nên lập Mão hướng… vv

II.               Mặt khác v BT ST

1.      Bát là 8, là 8 cung trong la kinh, trong mỗi cung ấy đu có một sơn vị trong 24 sơn của la kinh,nằm v trái hoặc nằm v phải của mặt hậu ngôi nhà tác hại lại ngôi nhà ấy gi là Sát (sát k hậu)

V DỤ:  Cung càn: , coi mắt tin là Càn, mặt hậu là Tốn, thì Ng là kế trái hậu của Tốn. Có một dòng Thủy hoặc một hình dạng Thủy đi từ Càn đến Ng rồi tại Tị (dừng) ở đấy, rồi lại có một nhánh (Thủy hoặc hình Thủy) chảy hoặc đi ngược lại hướng Càn (có thể vào Tuất hoặc Hợi). Nếu lập hướng ở Ng, cổng, cửa chính, cửa phụ và kể cả cửa sổ thì Ng là sát của hướng Càn.

Các hướng khác cũng tương tự như thế.

2.      Tác hại của BT ST

1/ Hướng Bắc: Sơn Thìn là sát: Gây ra nhiu bệnh tật, vợ chồng bất hòa.

2/ Hướng Nam: Sơn Hợi là sát: Gây cho anh em bất hòa, dễ gây sự với hàng xóm, bị ngưi nh nhen nói xấu, khó nuôi gia súc.

3/ Hướng ông: Sơn Thân là sát: Hay mắc nghiện hút, dễ gặp tai ha, bị kìm kẹp ức chế.

4/ Hướng Tây: Sơn Tị là sát: Không được quý nhân phụ trợ, trên không kính dưới không nhưng, con cái dễ mắc nghiện hút.

5/ Phương Tây Nam: Mão sơn là Sát: Dễ bị kẻ xấu quấy phá, trộm cướp mất tin, tai nạn trng thương.

6/ Phương ông Bắc: Sơn Dần là sát: Gia đình bất hòa, Tài lộc eo hẹp

7/ Phương ông Nam: Sơn Dậu là sát: Quan chức bị kìm kẹp khó ngóc đầu dậy, tổ tiên không phù trì, Th tổ tiên mà quỷ hưởng.

8/ Phương Tây Bắc: Sơn Ng là sát: Mất tình cảm, Bị đâm chém thương tích, mổ xẻ tang thương.

3.      PHÉP TRẤN

Cơ sở của phép trấn là: Trước mặt tin nhà, cổng, cửa chính, cửa phụ có dòng nước chảy tới, có hình tượng nhấp nhô như sóng nước, hoặc có bể chứa nước sạch, bể cá cảnh đu là tượng của Thủy. Ai gây nên bát sát? Những cái vừa nói đến ở trên:

Bát sát có tính chất như Ha Hại, do đó phải dùng bản cung của nó chế hóa ra ma phương mà chế nó; ta chế ma phương Diên Niên để hóa giải bát sát theo nguyên tắc sau:

1/ Dùng mã số ịa của bản cung gây ra ha hại đặt vào trung cung của Lạc Thư phi theo quỹ đạo hệ của chính nó ra 8 sao ở 8 cung, được số 5 vào trung cung thay cho số tương ứng của nó.

2/ 8 số này làm ruột của ma phương phát Diên Niên

3/ Phối đơn quẻ ruột từng quẻ với đơn quẻ ngoại thành khí Diên Niên lần lượt cho hết 8 cặp. Ta được bảng số ma phương phát Diên Niên

4/ Vẽ ma phương phát Diên Niên theo bảng số ma phương vừa lập, ma phương phát vẽ thái cực phát nhìn từ trong nhìn ra ngoài theo quẻ dịch

5/ Vị trí số 5 vào trung cung là vị trí treo ma phương lên phía trên

6/ Vẽ dịch tự và đầu từng quẻ kép hoặc vẽ mặt trái ma phương tùy ngưi vẽ ma phương quyết định

7/ Nhớ nạp thần tăng thêm sức mạnh cho ma phương. Ma phương trấn bát sát không ấn định ngày gi treo

8/ Vị trí treo ma phương trấn bát sát: Sơn vị nào bị thì treo ma phương ở chỗ đó, treo mặt có thái cực ra ngoài:

4.      CỤ THỂ:

HƯỚNG KHẢM: Mã số địa của Khảm là (1)

1.jpg

Chú ý: Mặt tin thù thưng chiếm tới 2 đến 3 cung: Càn – Tý – Cấn, thì sát Dần: Treo ma phương này ở tay phải mặt tin.

2.jpg

HƯỚNG CẤN: Mã số địa của Cấn là (8)

3.jpg

Ma phương này treo ở Dần

4.jpg

Ma phương Diên Niên trấn sát ở Cấn.

HƯỚNG CHẤN: Mã số địa của Chấn là (3)

Đặt 3 vào trung cung Lạc Thư rồi phi theo quỹ đạo của quẻ Chấn. Tám sao hệ Chấn mã số 3 phi ra làm ruột ma phương từng cặp sao phối ra Diên Niên

5.jpg

Ma phương này treo ở Ất

6.jpg

Ma phương phát Diên Niên trấn bát sát ở Chấn.

HƯỚNG TỐN: Mã số địa của Tốn là (4)

ặt 4 vào trung cung Lạc Thư rồi phi theo quỹ đạo của quẻ Tốn được tám sao làm ruột ma phương. Tám sao hệ Tốn mã số 4 phi ra làm ruột ma phương pháp từng cặp sao phối ra Diên Niên

7.jpg

Ma phương này treo ở Tỵ

8.jpg

Ma phương phát Diên Niên trấn bát sát ở Tốn

HƯỚNG NGỌ: Mã số địa của Ly là (9)

9.jpg

Đặt 9 vào trung cung Lạc Thư rồi phi theo hệ Ly. Số phi ra tam cung làm lõi ma phương. Kết hợp với số vòng ngoài từng cặp, từng cạp ra số Diên Niên là tốt

Ma phương này đặt ở chính Ng

10.jpg

Ma phương phát Diên Niên trấn bát sát ở Ly.

HƯỚNG KHÔN: Mã số địa của Khôn là (2)

ặt 2 vào trung cung Lạc Thư rồi phi theo quỹ đạo số 2 của Khôn. Phi ra tám hướng định các sao làm lõi của ma phương. Lõi ma phương phối với vòng ngoài từng cặp ra ma phương Diên

11.jpg

Ma phương này treo ở Mùi

12.jpg

Ma phương phát Diên Niên trấn bát sát ở Khôn.

HƯỚNG OÀI: Mã số địa của oài là (7)

Đặt 7 vào trung cung Lạc Thư rồi phi theo quỹ đạo của hệ oài. Các sao phi được trong tám cung làm ruột ma phương, kết hợp với các sao vòng ngoài từng cặp, từng cặp ra Diên Niên

13.jpg

Ma phương này treo ở Canh

14.jpg

Ma phương phát Diên Niên trấn bát sát ở Đoài.

HƯỚNG CÀN: Mã số địa của Càn là (6)

ặt Càn là 6 vào trung cung Lạc Thư rồi phi theo quỹ đạo của hệ Càn. Các sao phi được trong tám cung làm ruột ma phương, ruột này kết hợp với các sao vòng ngoài từng cặp, từng cặp ra Diên Niên

15.jpg

Ma phương này treo ở Hợi

16.jpg

Ma phương phát Diên Niên trấn bát sát ở Càn.

(Còn tiếp)

Sưu tầm lyhocdongphuong

- Advertisement -

BÀI VIẾT KHÁC