Phụ Tinh Thủy Phối Quái
Bài long pháp của Bát Trạch tức Phụ tinh thủy phối quái: Phụ, Vũ, Phá, Liêm, Tham, Cự, Lộc, Văn là phương pháp tịnh âm tịnh dương của Liêu Công dùng để định thu thuỷ, phóng thủy.
Pháp này dùng quái của hướng để hoán hào rồi an cửu tinh ở đó. Cách hoán hào và an tinh như sau:
– Quái chánh an Phụ tinh ở đó (tức an Phụ Bật ở đó và các Sơn nào nạp giáp ra quái đó đều an Phụ Bật);
– Hào giửa biến ra quái gì an Vũ Khúc ở đó (và các sơn nạp giáp);
– Hào dưới biến ra quái gì an Phá Quân ở đó;
– Hào giửa biến ra quái gì an Liêm Trinh ở đó;
– Hào trên biến ra quái gì an Tham Lang ở đó;
– Hào giửa biến ra quái gì an Cự Môn ở đó;
– Hào dưới biến ra quái gì an Lộc Tồn ở đó;
– Hào giửa biến ra quái gì an Văn Khúc ở đó;
Thí dụ: quái của hướng sơn thuộc Càn, hoán hào an sơn như sau:
– An Phụ Bật tinh ở sơn Càn (và các Sơn nạp giáp thuộc Càn);
– Càn biến hào giửa thành Ly -> an Vũ Khúc (các Sơn nào nạp giáp ra Ly đều an Vũ Khúc);
– Ly biến hào dưới thành Cấn -> an Phá Quân;
– Cấn biến hào giửa thành Tốn -> an Liêm Trinh;
– Tốn biến hào trên thành Khảm -> an Tham Lang;
– Khảm biến hào giửa thành Khôn -> an Cự Môn;
– Khôn biến hào dưới thành Chấn -> an Lộc Tồn;
– Chấn biến hào giửa thành Đoài -> an Văn Khúc;
Ghi chú: Tham Lang = Sinh Khí, Cự Môn = Thiên Y, Lộc Tồn = Họa Hại, Văn Khúc = Lục Sát, Liêm Trinh = Ngũ Quỷ, Vũ Khúc = Diên Niên, Phá Quân = Tuyệt Mạng, Phụ Bật = Phục Vị.
THỦY PHÁP CÁT HUNG ĐOÁN
1. Phụ Bật: thủy lai rất cao mạnh, các phòng (con) đều phú quý, thọ trường; Phụ Bật thủy khứ thì thoái bại điền trang ngay, nam yểu, nữ vong là cô quả; Kể thủy này triều lại thì các con đều phát đạt, thịnh vượng hơn hết là phòng thứ 3. Vong nhân thì hài cốt sạch sẽ mát mẻ.
2. Vũ Khúc: thủy lai, phát nhiều phòng, đời đời làm quan cao ở sân vua chúa; Vũ Khúc chảy đi thì đổ máu, chết non, còn nước này triều lai thì con cháu các phòng đều hưng vượng, thông minh, ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất, Hợi, Mão, Mùi, trung phòng thì đại thịnh, lắm con, nhiều cháu lâu dài. Hài cốt người chết sạch sẽ, có dây tơ hồng quấn bọc quan tài.
3. Phá Quân: thủy lai là hung thần sát; trước sát con trưởng, sau sát cháu nội. Phá quân thủy khứ thì đại cát xương (thịnh lắm), làm quan to và anh hùng ở gần nơi nguyên thủ; nước này triều lai thì bại trưởng phòng, Đinh, tài, điền địa hao tán hết, kiện cáo liên miên, sinh ra người hung bạo, đầu quân là giặc, nữ yểu, nam vong, tật bệnh, đến năm Tỵ, Dậu, Sửu, Dần, Ngọ, Tuất, sinh tàn tật điên cuồng v.v… Hài cốt của vong nhân sắc đen, mối, kiến, rễ cây đâm vào quan tài.
4. Liêm Trinh: thủy lai tối nan dương (khó chịu) bệnh tật, hồng hoàng, lắm họa ương. Liêm Trinh thủy khứ, tối vi lương (tốt lành), phú quý vinh hoa định 1 phương, thủy này triều lai thì đại bại trưởng phòng. Hài cốt vong nhân đầy bùn nước, sinh nhiều tai họa, vì quan tài bị rễ cây xuyên, kiến, mối, chuột, rắn phá đục vỡ nát hết, tệ hơn cát thủy khác, cải táng thì yên.
5. Tham Lang: thủy lai chiều huyệt trường, nhân khẩu thiên Đinh phát nhiều phòng. Tham lang thủy khứ, hiếu thám hoa (mê gái), bán hết điền viên tuyệt cả nhà. Nếu nước này mà chầu lai, trước phát trưởng phòng, sau phát cả nhiều phòng, đa tử, đa tôn, sớm đỗ đạt, làm quan to. Nếu thấy nhiều khe suối, lạch nước nhỏ chảy tiết khí đi, thì chậm phát phú quý, hài cốt người chết ấy được sạch sẽ, khô ráo tốt, ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất, Tỵ, Dậu, Sửu.
6. Cự Môn: thủy lai, triều khúc đường (khúc là gập, gãy, cong), con cháu đời đời vinh hiển. Cự môn thủy khứ, bị ly hương, bán hết điền viên chạy biệt phương. Nếu thủy này châu lai thì các phòng phát đạt, đa sinh quý tử, Hợi, Mão, Mùi niên ứng nghiệm, trăm sự đều hưng vượng; thủy chảy đi thì con cháu phiêu lưu, làm tăng ni thuật đạo; ví như con trâu đen mà đẻ ra con trâu trắng. Nếu có những dòng nước nhỏ chạy lại, thì con cháu hưởng phúc vô cùng tận.
7. Lộc Tồn: thủy lai thì bại trưởng; trưởng phòng nhân khẩu bị tai ương. Lộc tồn thủy khứ thì đại cát sương, phú quý, vinh hoa về phòng trưởng; nước này chảy lại thì bại phòng trưởng trước, mắc bệnh ôn hỏa, lục súc, thoái bại, nam yểu, nữ vong, con cháu câm điếc, gặp vào các năm Hợi, Mão, Mùi, Dần, Ngọ, Tuất. Nếu thấy ở ruộng ao, ngoài, lạch nhỏ bé chảy lại thì hài cốt của vong nhân đầy bùn nước chảy vào. 15 năm sau bị kiến, mối, sâu bọ, rắn rết, rễ cây
xuyên phá quan tài tuyệt diệt.
8. Văn Khúc: thủy lai khởi cao phong, sinh ra người nghèo đói, chết non dòng; văn khúc thủy khứ thì sinh đôi con, điền địa gia, lần từ thịnh vượng; nước này châu lai thì con út và đứa thứ 3 – 5 bại trước, gia nghiệp khánh kiệt, con cháu chết non, dâm loạn bậy bạ, đủ tai họa. Nghiệm vào các năm Hợi, Mão, Mùi, Tỵ, Dậu, Sửu; 12 hoặc 20 năm sau, quan tài, hài cốt mục nát tan hết.
LUẬN THỦY LÂM VỊ
– Nước ở vị trí tham lang chảy tới thì không bao giờ có tai họa, dây tơ hồng mọc từ dưới lên, có chỗ thi hài; diện mạo còn nguyên vẹn, quần áo như mới, tươi sáng, mặt hồng hào như người còn sống.
– Nước cự môn tới thì hài cốt khó sạch, trong huyệt có khí đỏ bốc lên như mây khói, nhân đó mà sinh ra con cháu thông minh, giàu sang.
– Nước ở cung lộc tồn tới thì quan quách bị lật nghiêng, bên trong đầy bùn nước, ai không tin mở ra mà coi sẽ thấy.
– Thủy vũ khúc tới thì rất lạ. Con cháu đỗ đạt cao khoa; nếu thấy thủy này lại, theo từ vị trí cát tú thì phú quý tuyệt bực không sai.
– Thủy phá quân chảy đến thì tai ác không thể nói hết. Rễ cây xuyên qua, sâu, bọ, kiến, mối đầy quan tài, thây cốt tiêu nát hết, đáng thương hại.
– Thủy ở vị liêm trinh chảy tới thì sâu, mối, rắn, chuột làm tổ ở trong quan quách, thây cốt nát hết, con cháu các phòng đều suy bại tiêu diệt.
– Văn khúc tinh vị thủy lưu lai trước huyệt thì quyết nhiên quan quách mối, kiến làm tổ và bùn đất lấn nát hết hài cốt.
– Phụ bật thủy tới trước huyệt trưởng thì con cháu giàu sang, bách sự vượng đạt, các phòng đều phát, không khắc hại. Hài cốt vong nhân, tơ hồng khí tía như gấm vóc, đượm hương hoa.